daigai

Well-Known Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối

I. MỞ ĐẦU
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Vấn nạn tin giả với dụng ý bóp méo sự thật đang ảnh hưởng khơng nhỏ đến đời sống chính
trị-xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới, thậm chí nó cịn đe dọa trực tiếp tới an ninh quốc
gia.
Với sự phát triển mạnh mẽ của MXH, ngày nay, mọi hoạt động diễn ra trong thế giới thực
đều có sự hỗ trợ đắc lực của các thiết bị thông minh; sự kết hợp giữa hệ thống ảo và thực thể
đã làm thay đổi cách thức con người tiến hành công việc, tạo ra sản phẩm, từ đó tạo nên
“cuộc cách mạng” về tổ chức các chuỗi sản xuất - giá trị, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Bên cạnh những lợi ích thiết thực, sự phát triển mạnh mẽ của MXH cũng đặt ra những thách
thức to lớn cho vấn đề bảo đảm an ninh mạng. Ngày 1-4-2015, Đại hội đồng liên minh Nghị
viện thế giới lần thứ 132 đã thông qua Nghị quyết về “Chiến tranh mạng: mối đe dọa
nghiêm trọng đến hịa bình và an ninh tồn cầu”. Chẳng hạn, các biến động chính trị xã
hội ở Bắc Phi, Trung Đơng đều có sự tham gia, hay chủ động, hay bị động của các tổ
chức, cá nhân sử dụng MXH làm công cụ để truyền bá thông tin, liên lạc và tổ chức hoạt
động. Những người tham gia cuộc bạo động đường phố vào tháng 8-2011 ở Anh, cuộc
xuống đường “chiếm phố Wall” ở Mỹ, biểu tình ở Hồng Công (Trung Quốc) gần đây, và
hoạt động tương tự tại nhiều nước khác đều sử dụng Facebook, Twitter như “vũ khí” lợi
hại để quảng bá cái gọi là “giá trị dân chủ”, thúc đẩy “cách mạng mầu”, tổ chức lật đổ
hay thay đổi thể chế ở một số nước. Tháng 9-2019, trong khuôn khổ kỳ họp thứ 74 Đại
hội đồng Liên hợp quốc ở New York (Mỹ), 20 quốc gia đã ký thỏa thuận ngăn chặn lan
truyền tin giả trực tuyến. Đây là những tiếng nói chung của cộng đồng quốc tế, là cơ sở để
tiến tới xây dựng một điều ước quốc tế về bảo đảm an ninh mạng và phịng, chống tội phạm
cơng nghệ cao.

Các chiến dịch tấn công mạng quy mô lớn nhằm vào hạ tầng công nghệ thông tin trọng yếu
của các quốc gia..., gián điệp mạng, khủng bố mạng, kêu gọi tài trợ khủng bố, tội phạm
mạng, tán phát tin giả liên tục diễn ra, gây ra những hậu quả khôn lường. Trên cương vị
Tổng thống Mỹ, ông Barack Obama từng thừa nhận: “Đe dọa về an ninh mạng trở thành một
trong các thách thức về kinh tế và an ninh quốc gia nguy hiểm nhất đối với nước Mỹ”(1). Bộ
Quốc phịng Mỹ đã chính thức cơng nhận MXH là một lãnh thổ mới, có tầm quan trọng
ngang với các lãnh thổ khác trong chiến tranh, như trên đất liền, trên biển, trên không và
trong không gian(2). Tổng thống Mỹ Đô-nan Trăm xác định, phát triển chiến lược an ninh
mạng mới toàn diện hơn là một trong bốn ưu tiên hàng đầu của nước Mỹ và ban hành sắc
lệnh an ninh mạng ngay trong 100 ngày cầm quyền đầu tiên.
Ở Nga, Tổng thống Nga Vladimir Putin cho rằng, “Trong điều kiện hiện nay, “sức sát
thương” của các cuộc tấn cơng thơng tin có thể cao hơn bất kỳ loại vũ khí thơng thường


nào”(3) và ban hành học thuyết an ninh mạng mới vào ngày 5-12-2016. Nhằm bảo đảm hệ
thống internet nội bộ của Nga hoạt động ổn định cả trong trường hợp nước này bị ngắt kết
nối với kết cấu hạ tầng internet toàn cầu, Tổng thống Nga V. Putin đã ký ban hành Luật
Internet 2019. Ngay sau khi Luật có hiệu lực, ngày 23-12-2019, Nga tiến hành thử nghiệm
về độ tin cậy của kết cấu hạ tầng internet nội địa trong tình huống nước này bị ngắt internet
trên tồn thế giới do bị tấn công mạng.
Với Trung Quốc, MXH được coi là chiến trường thứ năm và là mặt trận tình báo mới. Chủ
tịch Trung Quốc Tập Cận Bình khẳng định, “Khơng thể có an ninh quốc gia nếu khơng có an
ninh mạng, internet và an ninh thông tin đã trở thành thách thức mới đối với Trung Quốc vì
cả hai đều gắn liền với an ninh quốc gia và ổn định xã hội”(4). Bộ Quốc phòng Trung Quốc
cũng xác định, “MXH đã trở thành một trụ cột mới cho phát triển kinh tế - xã hội”(5). Để
đáp ứng yêu cầu của công tác bảo đảm an ninh mạng, Trung Quốc liên tục có những thay
đổi, bổ sung trong xây dựng, tạo lập chính sách và hành lang pháp lý cho lĩnh vực công tác
này. Tháng 5-2019, Trung Quốc công bố dự thảo Luật An ninh mạng mới thay thế Luật An
ninh mạng có hiệu lực từ tháng 6-2017. Đồng thời, ban hành quy định về “Phương pháp
đánh giá an ninh mạng”, gồm hệ thống các tiêu chí đánh giá về an ninh mạng và mức độ tin

cậy của chuỗi cung ứng cho kết cấu hạ tầng thông tin quan trọng của đất nước; theo đó, các
hoạt động mua sắm sản phẩm, dịch vụ an ninh mạng phục vụ hạ tầng mạng quan trọng phải
được đánh giá về an ninh mạng và chỉ được thực hiện sau khi vượt qua các đánh giá về an
ninh mạng.

Tại Việt Nam, gần đây, MXH như đã trở thành môi trường để một số người truyền bá
luận điệu sai trái, đưa ra thông tin xấu độc, gây hại, công bố phát ngôn gây thù hận; đồng
thời bị một số người lợi dụng để thể hiện hành vi phản văn hóa, vi phạm thuần phong mỹ
tục, sử dụng ngơn từ tục tĩu để thóa mạ, chửi bới người khơng có cùng quan điểm. Một
số trường hợp, khi đến với cơng chúng, MXH cịn làm cho thơng tin chính thống bị nhiễu
loạn, ảnh hưởng xấu đến trật tự, an ninh xã hội. Có thể nói, MXH đang giống như “mê
hồn trận”, làm cho con người khó phân biệt đâu là tin thật, đâu là tin giả... Và nổi lên
trong đó là việc một mặt các thế lực thù địch lợi dụng MXH để hô hào tụ tập đơng người
phản đối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, cố gắng kích động dư luận, biến
bức xúc thành bạo động, khiến sinh hoạt xã hội trở nên phức tạp; mặt khác, họ triệt để lợi
dụng MXH để hình thành cái gọi là “truyền thơng độc lập”, tách khỏi sự quản lý của Nhà
nước; thực hiện các thủ đoạn tuyên truyền phá hoại tư tưởng, kích động tâm lý hồi nghi
với chính quyền, thổi bùng bức xúc trong nhân dân để tạo điều kiện, môi trường thực
hiện “cách mạng mầu”; đồng thời cổ xúy cho các luận điệu dân chủ, nhân quyền, địi tự
do biểu tình, tự do ngơn luận, tự do lập hội, tự do báo chí, tự do tôn giáo theo quan điểm
phương Tây để phục vụ cho “diễn biến hịa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa”.
Vì vậy, đề tài “XĨA BỎ TIN ĐỒN THẤT THIỆT CĨ LIÊN QUAN ĐẾN ANTT TRÊN
MXH” mang tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.

Nội dung đề tài gồm :


Chương 1 Lí luận chung
1.1 MXH

1.2 Tin đồn thất thiệt
1.3 Ảnh hưởng của tin đồn tới ANTT
Chương 2 Nguyên nhân - Thực trạng
2.1 Nguyên nhân xuất hiện tin đồn trên MXH
2.2 Công tác bảo đảm ANTT trên MXH tại Việt Nam hiện nay
Chương 3 Một số giải pháp
3.1 Trách nhiệm của các bên trong bảo đảm ANTT trên MXH
3.2 Giải pháp bảo đảm ANTT trên MXH thời gian tới
II. NỘI DUNG
Chương 1
1.1 MXH
Những năm gần đây, MXH (MXH) đã có bước phát triển mạnh mẽ, tác động lớn đến đời
sống xã hội ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. MXH đã trở
thành một thuật ngữ phổ biến với những chức năng đa dạng cho phép người dùng kết nối,
chia sẻ, tiếp nhận thơng tin một cách nhanh chóng, hiệu quả.

Nhìn từ góc độ quản lý nhà nước, MXH là hệ thống thơng tin cung cấp cho cộng
đồng người sử dụng mạng các dịch vụ lưu trữ, cung cấp, sử dụng, tìm kiếm, chia sẻ và
trao đổi thơng tin với nhau, bao gồm dịch vụ tạo trang thơng tin điện tử cá nhân, diễn
đàn, trị chuyện trực tuyến, chia sẻ âm thanh, hình ảnh và các hình thức dịch vụ tương tự
khác.
Nhìn từ góc độ văn hóa¬ xã hội, MXH là tập hợp các mối quan hệ giữa các cá nhân,
nhóm cá nhân, tổ chức trên mơi trường internet. Chính vì thế, MXH có thể coi là một loại
hình cộng đồng song mang tính chất ảo, trong đó bao gồm nhiều cộng đồng trực tuyến
khác nhau nhằm thỏa mãn các nhu cầu về vật chất và tinh thần của con người. Một số
cộng đồng như Facebook, Youtube, Zalo… thu hút một số lượng lớn người tham gia,
ngày càng đóng vai trị quan trọng trong đời sống xã hội.
Tại Việt Nam, các MXH bắt đầu du nhập từ những năm 2000 dưới hình thức các
trang nhật ký điện tử (blog). Đến nay, có khoảng 270 MXH được cấp giấy phép hoạt
động với khoảng 35 triệu người dùng, chiếm 37% dân số. Trung bình mỗi ngày người

Việt Nam vào MXH hơn 2 giờ. Đối tượng sử dụng mạng internet thường xun nhất là
nhóm lứa tuổi từ 15-40 tuổi. Nhóm đối tượng này chủ yếu là học sinh, sinh viên và người
lao động. Nhìn chung, họ là những người trẻ, có điều kiện tiếp cận với máy tính và mạng
internet, nhanh nhạy trong việc tiếp thu những tiến b ộ khoa h ọc công nghệ cũng như
những trào lưu mới trên thế giới.


1.2 Tin đồn thất thiệt
Thông tin giả, tin đồn thất thiệt là những thông tin, tin đồn khơng có thật, sai sự thật, bịa
đặt, là những tin đồn chưa được lý giải, kiểm chứng về một sự kiện, hiện tượng, tình huống,
hay vấn đề mà công chúng quan tâm. Bản chất của những thông tin giả, tin đồn thất thiệt
mang ý nghĩa tiêu cực, thiếu chính xác hay bịa đặt, được sử dụng nhằm phục vụ cho mục
đích xấu, gây rối, chống phá.
Kết quả nghiên cứu của MIT (Viện công nghệ Massachusetts - Mỹ) cho thấy, tin "giả"
luôn được lan truyền với tốc độ nhanh hơn và được phát tán rộng rãi hơn rất nhiều so với tin
thật. Hệ lụy của việc lan truyền “tin giả” không chỉ dừng lại ở những cá nhân đơn lẻ, những
nhóm người ở từng địa phương nhất định mà cịn có tác động rộng lớn hơn rất nhiều, đe dọa
trực tiếp tới an ninh quốc gia.
Trong điều kiện khủng hoảng, tin đồn càng có đất sống bởi khi đó cơng chúng thường
cảm giác bất định và lo âu nhất. Trong cơng trình The Psychology of Rumor (1947) đã trở
thành kinh điển của mình, Allport và Postman đã xác định hai điều kiện tác động tới tin đồn
(tạm gọi là T): Tầm quan trọng (tạm gọi là Q) của tin đồn đối với công chúng và sự mơ hồ
(M) của các dữ kiện/bằng chứng liên quan tới tin đồn. Hai biến số này liên hệ với nhau theo
công thức: T = Q x M. Có nghĩa, số lượng và cường độ của tin đồn (T) càng tăng, nếu tầm
quan trọng của nội dung tin đồn càng cao đối với công chúng và sự mơ hồ của các bằng
chứng (như thông tin đa nghĩa, tối nghĩa, nhập nhằng) càng cao và ngược lại. Khi lo sợ về
những hệ quả của một tình huống, sự kiện nào đó như tăng giá hàng hóa, thực phẩm độc hại,
động đất… (ngược lại với mong muốn của công chúng), các tin đồn sẽ xuất hiện nhiều với
cường độ lớn khi thông tin về các tình huống đó thiếu hụt hay mơ hồ.
Trước một tin đồn, các cá nhân trong công chúng thường thể hiện một trong ba loại định

hướng: Phê phán, không phê phán hay truyền tiếp. Với loại phê phán, cá nhân sử dụng năng
lực phê phán để phân định sự thật và giả dối trong tin đồn mà anh ta nghe được. Việc này dễ
xảy ra, nếu anh ta có kiến thức hay kinh nghiệm về chủ đề đó. Nhưng quan trọng hơn là anh
ta phát triển được tư duy phê phán, phản biện. Cịn với loại khơng phê phán thì cá nhân
không thể sử dụng năng lực phê phán để đánh giá mức độ thật giả trong các tin đồn. Có thể,
một số tình huống hay cảm xúc đã hạn chế việc sử dụng năng lực phê phán, như trong các
tình huống khẩn cấp (thiên tai hay nhân tai). Trong nhiều tình huống khác, các cá nhân
khơng có đủ kiến thức về vấn đề mà tin đồn đề cập và không có năng lực phê phán sẽ suy
diễn hay thêu dệt ý nghĩa của tin đồn, sao cho nó phù hợp với định khn, định kiến hay thái
độ của mình. Với loại thứ ba (thường thể hiện trong các thực nghiệm tâm lý học xã hội), nội
dung của tin đồn không liên quan đến cá nhân, nên anh ta chỉ quan tâm đến việc truyền tiếp
nó cho người khác. Đơi khi, nó giống như một đứa trẻ được người khác cho biết một “tin
vịt”, nó chẳng hiểu gì lắm nhưng lại phấn khích truyền tin này cho nhiều người khác vì
nhiều động cơ khác nhau (thích thể hiện, kiếm chuyện làm quà…).
Tất nhiên, trong các tin đồn nói chung có nhiều tin đồn không xác thực, một số tin
đồn xác thực, một số khác chứa dựng cả 2 yếu tố: Nhiều thông tin chi tiết trong tin đồn là sai

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 

Các chủ đề có liên quan khác

Top