Download miễn phí Tiểu luận Thực trạng về điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam từ những năm 90 trở lại đâ





Năm 1994, NHNN công bố chủ trương hạ lãi suất trong cuộc họp Giám đốc đầu năm . Nhưng chủ trương này không được thực hiện với lý do tỷ lệ lạm phát bj đẩy cao lên gấp đôi năm 1993 .Trong ba năm chậm hạ lãi suất ,tiền gửi các ngân hàng chỉ sử dụng hết một nửa .Các doanh nghiệp đã è cổ ra gánh một lãi suất cao để trả Cho những người nước ngoài đem ngoại tệ vào đổi lấy VND để gởi tiết kiệm với lãi suất cao gấp 4-5 lần lãi suất thế giới trong hàng loạt sổ tiết kiệm hàng tỷ đồng một sổ .Vì vậy ,khi dồn dập hạ lãi suất trong năm 1996 ,số dư nguồn vốn tiền gửi đã giảm đột ngột vào quí IV năm đó ,chuyển các NHTM từ vị thế thừa vốn sang thiếu vốn . Công với cái vô lý là bắt các NHTM phải gánh chịu số lỗ do thực hiện chính sách hạ lãi suất , và áp đặt chênh lệch lãi suất 0,35% ,các NHTM và nhất là các ngân hàng cổ phần đã bị giảm lợi nhuận một cách nặng nề .Tài chính vẫn duy trì một mức thuế lợi tức 45% và Cho rằng tỷ lệ đó vẫn phù hợp ,cộng với việc tính thuế không Cho ghi các khoản chi phí trích trước đã dồn các ngân hàng vào tình trạng hầu như không tích luỹ được vốn .Việc tăng vốn điều lệ vì vậy hầu như không thực hiện được.Các NHTM đã yếu và để nợ quá hạn ,nợ xấu tăng cao,lại bị suy yếu thêm vì những chính sách dồn các NHTM vào chỗ không duy trì được tỷ suất lợi nhuận bình quân
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

tiền gửi = Tỷ lệ lạm phát + Tỷ lệ nhất định
Nguyên tắc bảo đảm thu nhập hợp lí cho các tổ chức tín dụng
Lãi suất cho vay = Lsuất tiền gửi + Chi phí + Thuế + Tỷ lệ nhất định
Nguyên tắc bảo đảm thu nhập hợp lí cho người vay vốn ngân hàng
Tỷ lệ lạm phát < Lsuất tiền gửi < Lsuất cho vay II .Chính sách lãi suất
Đây là một bộ phận cấu thành của chính sách tiền tệ quốc gia. Vì thế, trước hết nó phải hướng tới những mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia. Đó là ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát và kích thích tăng trưởng kinh tế. Thứ hai, chính sách tiền tệ ở nước ta hiện nay phải nhằm tiến tới hình thành một thị trường tiền tệ, tạo sự cạnh tranh lành mạnh và công bằng giữa các tổ chức tín dụng, xoá bỏ sự khác biệt về lãi suất giữa các khu vực. Thứ ba, chính sách lãi suất phải tạo điều kiện để giảm chi phí hoạt động tín dụng, tránh tình trạng biến tướng chi phí của các TCTD vào giá thành sản xuất của xã hội. ngoài ra, đối với các TCTD, chính sách lãi suất còn phải đảm bảo có sự chênh lệch lãi suất đủ để duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh.
Phần II.
Thực trạng về chính sách lãi suất ở Việt Nam từ những năm 90 Cho đến nay
I.Sơ lược việc điều hành, cải tiến lãi suất trong thời gian qua.
1.Trước tháng 3- 1989 :
Nghị định 53/ HĐBT ngày 26/3/1988 và hai pháp lệnh về ngân hàng (1/10/1990) tách hệ thống ngân hàng 1 cấp thành 2 cấp ,từng bước chuyển hoạt động ngân hàng sang cơ chế thị trường .Tuy nhiên do lạm phát cao nên chính sách lãi suất chưa thực hiện được lãi suất dương Cho nên thời kỳ này là thời kỳ điều hành theo cơ chế lãi suất âm. Điều này có nghĩa là:
Lãi suất tiền gửi thấp hơn mức lạm phát.
Lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động và thấp hơn mức lạm phát.
Hệ thống lãi suất có nhiều tiêu cực.
+ Khả năng huy động vốn đi với yêu cầu rút bớt tiền lưu thông, giải toả áp lực của tiền đối với giá cả hàng hoá bị hạn chế nhiều.
+ Nhu cầu vay vốn tăng lên không thực chất, tạo lợi nhuận giả tạo cho doanh nghiệp.
+ Ngân hàng bao cấp qua lãi suất cho khách hàng, tạo lỗ không đáng có cho ngân hàng. Ngân hàng không thể kinh doanh tiền tệ bình thường theo cơ chế thị trường.
2.Từ tháng 3-1989:
Khi lạm phát đã được kiềm chế và đẩy lùi tương đối thấp ,có điều kiện thực hiện chính sách lãi suất dương dương tức là lãi suất Cho vay cao hơn lãi suất huy động và lãi suất tiền gửi tiết kiệm cao hơn lạm phát .Tháng 10/1992 ,NHNN bắt đầu từng bước thực hiện lãi suất dương và đến tháng 3/1993 NHNN đã chủ động sử dụng công cụ lãi suất, chuyển từ lãi suất âm qua lãi suất dương. Để thu hút tiền thừa trong lưu thông về, kìm chế lạm phát, tránh bao cấp qua lãi suất, NHNN đã nâng lãi suất huy động lên một lượng rất cao trong một thời gian ngắn (lãi suất tiết kiệm không kỳ hạn 109 % / năm, lãi suất tiết kiệm 3 tháng 144 %/ năm). Nhờ vậy đã:
Thu hút một khối lượng tiền lớn trong lưu thông, tăng nguồn vốn tín dụng, giảm áp lực lạm phát.
Chuyển lãi suất âm qua lãi suất dương, xử lí hài hoà lợi ích giữa người gửi tiền, người vay vốn và TCTD.
Xoá bỏ bao cấp qua lãi suất ngân hàng, chuyển hoạt động ngân hàng sang kinh doanh thực sự.
Tuy nhiên, ở giai đoạn này, hệ thống lãi suất còn phức tạp, còn nhiều mức lãi suất tiền gửi và cho vay.
+ Đối với từng ngành kinh tế có mức lãi suất riêng.
+ Đối với các thành phần kinh tế còn có phân biệt lãi suất: lãi suất Cho vay đối với doanh nghiệp Nhà nước thấp hơn doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
3. Từ 1/ 10/ 93: NHNN vừa áp dụng lãi suất trần( cho vay) vừa áp dụng lãi suất thoả thuận.
-Lãi suất trần: Cho vay doanh nghiệp nhà nước 1,8% / tháng, kinh tế ngoài quốc doanh 2,1 % / tháng.
-Lãi suất thoả thuận: Trường hợp ngân hàng không huy động đủ vốn để cho vay theo lãi suất quy định phải phát hành kì phiếu với lãi suất cao hơn thì được áp dụng lãi suất thoả thuận: Lãi suất huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kì hạn là 0,1 %/ tháng và cho vay cao hơn mức trần 2,1%/ tháng.
Trên thực tế, khoảng 30-60 % tổng dư nợ lúc bấy giờ là từ các khoản cho vay bằng lãi suất thoả thuận mà phần lớn là cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ nông dân, với lãi suất phổ biến là 2,3% - 3,5 % tháng. Với cơ chế lãi suất thoả thuận, có thể hiểu là đã tự do hoá một phần lãi suất, hay đó là cơ chế cho vay với lãi suất “cứng” đi đôi với một biên độ dao động nhất định.
Thời kỳ này , các ngân hàng đạt mức chênh lệch giữa lãi suất Cho vay và lãi suất huy động cao ,phổ biến là từ 0,7% -1% tháng ,Cho nên ,hầu hết , các NHTM đều có mức lợi nhuận cao ,trong khi các doanh nghiệp lại gặp khó khăn về tài chính .Từ thực trạng này ,Quốc hội khoá IX ,kỳ họp thứ 8 tháng 10/1995 đã thông qua nghị quyết bỏ thuế doanh thu hoạt động tín dụng ngân hàng ,đồng thời yêu cầu các NHTM phải tiết giảm chi phí để giảm lãi suất Cho vay .Đồng thời khống chế chênh lệch giữa lãi suất Cho vay và lãi suất huy động 0,35%/tháng .Đó là lý do để chuyển sang một giai đoạn thực hiện chính sách trần lãi suất .
4.Từ 1/1/996 Chuyển từ lãi suất thoả thuận qua trần lãi suất.
Việc quy định trần lãi suất và khống chế mức chênh lệch 0, 35% thực chất là vừa quy định trần lãi suất, vừa quy định sàn lãi suất. Vì thế từ 1/ 1/ 96, NHNN đã quy định trần lãi suất cho vay tối đa và mức chênh lệch 0,35 % thay cho việc điều hành theo lãi suất cho vay, lãi suất tiền gửi chi tiết và lãi suất thoả thuận quy định trước đó .
Do quy mô và địa bàn hoạt động khác nhau, nhu cầu vốn khác nhau, chi phí hoạt động khác nhau, nên NHNN đã quy định trần lãi suất có phân biệt như sau:
Trần lãi suất cho vay ngắn hạn.
Trần lãi suất cho vay trung hạn và dài hạn.
Trần lãi suất cho vay trên địa bàn nông thôn.
Trần lãi suất cho vay của Quỹ tín dụng đối với các thành viên.
Giữa các trần lãi suất này lúc đầu có mức chênh lệch với nhau khá xa nhưng sau mỗi lần điều chỉnh khoảng cáh này đã rút ngắn lại và chỉ còn chênh lệch ít .
Một thực tế khách quan của cơ chế thị trường là khu vực nông thôn có nhu cầu vốn lớn nhưng huy động tại chỗ được rất ít và chi phí hoạt động ngân hàng ở đây rất cao ,nên NHNN qui định trần lãi suất Cho vay nông thôn cao hơn thành thị nhằm thu hút vốn từ thành thị về nông thôn .Nhưng nhiều quan điểm Cho rằng lãi suất Cho vay nông thôn phải thấp hơn hay bằng thành thị mới ưu đãi nông nghiệp ,mới khuyến khích nông nghiệp phát triển .
Do đó , từ 21/1/1998 , Quốc hội khoá IX cho phép bỏ mức chênh lệch 0,35 % / tháng, đồng thời để thu hẹp sự cách biệt giữa mức lãi suất cho vay của thành thị và nông thôn, NHNN quy định các mức lãi suất mới, rút từ 4 trần xuống còn 3 trần lãi suất và không quy định mức chênh lệch 0,35 %/ tháng nữa:
Trần lãi suất cho vay ngắn hạn 1,2 % tháng.
Trần lãi suất cho vay trung dài hạn 1,25 % tháng.
Trần lãi suất QTD cho vay thành viên 1,5 % tháng.
Năm 1999, NHNN tiếp tục thực hiện quản lý và điều hành chính sách lãi suất tín dụng theo cơ chế lãi suất trần và lãi suất tái cấp vốn đố...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top