Rhisiart

New Member
Download Tiểu luận Thực trạng pháp luật về khuyến mại của nước ta hiện nay

Download miễn phí Tiểu luận Thực trạng pháp luật về khuyến mại của nước ta hiện nay





MỤC LỤC
I. Sơ lược về hoạt khuyến mại. 1
1.1. Khái niệm khuyến mại. 1
1.2. Đặc điểm của khuyến mại. 1
II. Thực trạng pháp luật về khuyến mại của nước ta hiện nay. 2
2.1. Các hình thức khuyến mại. 2
2.1.1) Đưa hàng mẫu cung ứng dịch vụ mẫu để khách hàng dùng thử không phải trả tiền 2
2.1.2) Tặng hàng hóa cho khách hàng cung ứng dịch vụ không thu tiền không kèm theo việc mua bán hàng hóa cung ứng dịch vụ. 2
2.1.3) Bán hàng cung ứng dịch vụ với giá thấp hơn giá bán hàng, giá cung ứng dịch vụ trước đó. 3
2.1.4) Bán hàng cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ để khách hàng được hưởng một hay một số lợi ích nhất định. 4
2.1.5) Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu dự thi cho khách hàngđể chọn người trao thưởng theo thể lệ và giải thưởng đã công bố. 5
2.1.6) Bán hàng cung ứng dịch vụ kèm theo việc tham gia các chương trình mang tính may rủi. 5
2.1.7) Tổ chức chương trình khách hàng thường xuyên theo đó việc tặng thưởng cho khách hàng căn cứ trên số lượng hay giá trị hàng hóa, dịch vụ mà khách hàng thực hiện được thể hiện dưới hình thức thẻ khách hàng phiếu ghi nhận sự mua hàng hóa,dịch vụ hay các hình thức khác. 6
2.1.8. Tổ chức cho khách hàng tham gia các chương trình văn hóa nghệ thuật, giải trí và các sự kiện khác vì mục đích khuyến mại. 6
2.1.9) Cá hình thức khuyến mại khác nếu được cơ quan quản lý Nhà nước về thương mại chấp thuận. 7
2.2 Các quy định về hoạt động khuyến mại bị cấm. 7
2.3. Các quy định về dịch vụ khuyến mại 8
2.4.Quản lý nhà nước đối với hoạt động khuyến mại. 9
Ngoài các quy định trên thì pháp luật cũng quy định rõ quyền và nghĩa vụ của thương nhân khi thực hiện hoạt động khuyến mại . Những quy định này đảm bảo cho quyền tự do kinh doanh của thương nhân trong khuôn khổ pháp luật . 9
II. Nhận xét về quy định của pháp luật khuyến mại hiện hành từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật khuyến mại ở Việt Nam 10
3.1. . Nhận xét về quy định pháp luật về khuyến mại của nước ta hiện nay. 10
3.1.1) Những hạn chế về hình thức khuyến mại. 10
3.1.2) Về chất lượng hàng hóa, dịch vụ dụng cho khuyến mại. 11
3.1.3 ) Một số bất cập khác mà hiện nay xảy ra. 11
3.2. Nguyên nhân của những bất cập trên 12
3.3. Một số kiến nghị 13
 
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

ứng dịch vụ trước đó.
Hình thức khuyến mại này còn hiểu biết đến cái tên giảm giá. Giảm giá là hành vi bán hàng , cung ứng dịch vụ trong thời gian khuyến mại với giá bán thấp hơn giá bán giá cung ứng dịch vụ đó trước thời gian khuyến mại. Hình thức khuyến mại này thường được các thương nhân sử dụng bởi vì nó có hiệu quả cao trong việc tác động đến tâm lý người tiêu dùng hơn ( thích mua sản phẩm rẻ hơn so với giá đã niêm yết trước đó).
Tuy nhiên, nếu các thương nhân quá lạm dụng hình thức này sẽ dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh. Các nhà sản xuất sẽ đua nhau giảm giá sản phẩm của mình thấp hơn để thu hút sự chú ý của khách hàng. Do đó, để ngăn ngừa hành vi này, việc giảm giá phải tuân thủ các quy định về hạn mức tối da giá trị của hàng hóa. Theo quy định tại điều 6 và Khoản 1 Điều 9 NĐ số 37/ NĐ-CP/2006 thì mức giảm hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại không được vượt quá 50%giá của hàng hóa dịch vụ đó trước thời gian khuyến mại. Bên cạnh đó tại Khoản 2 Điều 9 của NĐ này pháp luật còn quy định nếu hàng hóa , dịch vụ thuộc diện nhà nước quản lý thì việc khuyến mại theo hình thức này được thực hiện theo quy định của chính phủ cụ thể như: không được giảm giá đối với hàng hóa, dịch vụ do nhà nước quy định giá cụ thể, không được giảm giá xuống thấp hơn mức tối thiểu đối với hàng hóa dịch vụ nhà nước quy định khung giá hay giá tối thiểu.
Về thời gian thực hiện chương trình giảm giá được quy định cụ thể tại Khoản 4 Điều 9 NĐ số 37/NĐ-CP/2006, tho đó thì ; Tổng thời gian thực hiện chương trình khuyến mại bằng cách giảm giá đối với mọt loại nhãn hiêu hàng hóa dịch vụ không được vượt quá 90 ngày trong 1 năm và một trương trình khuyến mại kông được vượt quá 45 ngày.
Có thể thấy việc pháp luật quy định khá chặt chẽ về hình thức nay là hợp lý. Bởi lẽ đây là hình thức khuyến mại dễ dàng thực hiện các thương nhân có thể áp dụng nó với ngay hàng hóa của mình tại các đại lý.
Do đó, không thể tránh khỏi việc một số thương nhân lựi dụng giảm giá để bán phá giá hàng hóa , dịch vụ tranh dành thị phần của các thương nhân khác. Pháp luật càng có những quy định cụ thể về hạn mức tối đa, thời gian của trương trình giảm giá thì càng tránh được nguy cơ của việc cạnh tranh không lành mạnh , gây ảnh hưởng xấu đến việc kinh doanh của thương nhân khác.
2.1.4) Bán hàng cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ để khách hàng được hưởng một hay một số lợi ích nhất định.
Theo hình thức khuyến mại này thì khách hàng khi mua hàng hóa , sử dụng dịch vụ của thương nhân sẽ được phát kèm phiếu mua hàng , phiếu sử dụng dịch vụ và khách hàng sẽ được hưởng những lợi ích nhất định từ những cách đó. Phiếu mua hàng thường có ý nghĩa giảm giá hay có mệnh giá nhất sđịnh để thanh toán cho những lần mua sau trong hệ thống bán hàng của thương nhân. Phiếu sử dụng dịch vụ có thể cho phép sử dụng dịch vụ miễn phí , theo điều kiện nhà cung ứng dịch vụ đưa ra. Với hình thức khuyến mại nay các thương nhân có thể dành cho khách hàng của mình những lợi ích nhất định vào lần sau khi họ đến mua hàng.
Hình thức khuyến mại này cũng được pháp luật quy định chi tiết về giá trị vật chất của piếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ . Giá trị tối đa của phiếu mua hàng ,phiếu sd dịch vụ được tặng kèm theo hàng hóa, dịch vụ trong thời gian khuyến mại không được vượt quá 50%giá của hàng hóa dịch vụ được khuyến mại đó trước thời gian khuyến mại. ngoài ra, khi sử dụng hình thức khuyến mại này các thương nhân còn phải thông báo công khai các thông tin liên quan như: giá trị bằng tiền hay lợi ích cụ thể mà khách hàng được hưởng tờ phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ , địa điểm bán hàng ,cung ứng dịch vụ và các loại hàng hóa dịch vụ mà khách hàng có thể nhận được tờ phiếu mua hàng , phiếu sử dụng dịch vụ đó.
2.1.5) Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu dự thi cho khách hàngđể chọn người trao thưởng theo thể lệ và giải thưởng đã công bố.
Những hình thức khuyến mại ở trên có thể mang lại lợi ích vật chất trực tiếp dễ dàng nhận thấy trước mắt cho người tiêu dùng như được tặng quà hay được mua với giá thấp hơn của sản phẩm trước chương trình khuyến mại. Hình thức bán hàng , cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu dự thi cho khách hàng tì không như vậy, Thông qua việc mua hàng hóa sử dụng dịch vụ khách hàng có cơ hội tham gia một cuộc thi do thương nhân tổ chức. Khi tham gia vào cuộc thi, khách hàng có cơ hội nhận được giải thưởng . Mục đích của thương nhân khi áp dụng hình thức này là thu hút sự hiếu kỳ của khách hàng đối với sản phẩm của mình từ đó đánh giá mức độ quan tâm của họ đối với hàng hóa dịch vụ đó.
Khi thực hiện khuyến mại theo hình thức này các thương nhân phải đảm bảo tổ chức cuộc thi và mở thưởng công khai có sự chứng kiến của thay mặt khách hàng và phải thông báo cho sở Thương mại nơi tổ chức thi, mở thưởng ; việc giao giải thưởng đã công bố . Luật Thương mại 2005 cũng quy định về nội dung của phiếu dự thi. Theo đó thì phiếu ự thi phải thông báo công khai các thông tin như : tên của hoạt động khuyến mại, thời gian khuyến mại, giá bán hàng hóa , giá cung ứng dịch vụ khuyến mại.
2.1.6) Bán hàng cung ứng dịch vụ kèm theo việc tham gia các chương trình mang tính may rủi.
Khi khách hàng mua hàng hóa, dịch vụ sẽ được tham gia vào một chương trình do thương nhân tổ chức và việc trúng thưởng được chọn trên sự may mắn của người tham dự. hình thức khuyến mại này có thể gặp trong thực tế dưới một số dạng, ví dụ như : bốc thăm, cào số trúng thưởng, bóc, mở sản phẩm để nhận được giải thưởng.. Khuyến mại bằng cách đưa ra các chương trình mang tính may rủi cũng tạo nên sự hấp dẫn đối với khách hàng, do tâm lý muốn thử vận may của đại đa số người tiêu dùng.
Đây cũng là hình thức khuyến mại dễ xảy ra tiêu cực nhất trong số cá hình thức khuyến mại mà pháp luật quy định. Một số cơ sở sản xuất, kinh doanh có thể lạm dụng hình thức này để lừa dối khách hàng. Do đó, việc pháp luật đưa ra các quy định chặt chẽ đối với hình thức bán hàng cung ứng dịch vụ kèm theo việc tham gia các chương trình mang tính may rủi cũng nhằm mục đích bảo vệ tối đa lợi ích người tiêu dùng. Chương trình khuyến mại mang tính may rủi phải được tổ chức công khai, theo thể lệ đã công bố, có sự chứng kiến của khách hàng . nếu trong trường hợp giá trị giải thưởng từ 100triệu đồng trở lên , thương nhân phải thông báo cho cơ quan quản lý nhà nước về thương mại có thẩm quyền. Đó là sở thương mại nơi tổ chức khuyến mại.
Đối với chương trình khuyến mại mang tính may rủi có phát hành vé số dự thưởng phải tuân theo các quy định của pháp luật
Pháp luật cũng quy định tổng thời gian thực hiện khuyến mại đối với một loại nhãn hiệu hàng hóa, dịch vụ không được vượt quá 180 ngày trong 1 năm , một chương trình khuyến mại không được vư
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top