Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối

Khủng hoảng tài chính Mỹ - nguyên nhân và sự ảnh hưởng đến Việt Nam

Có thể nói, bức tranh toàn cảnh nền kinh tế thế giới năm 2008 là một bức tranh với những khối màu ảm đạm. Trong đó, nền kinh tế Mỹ là những nét vẽ đầu tiên. Trong lĩnh vực kinh tế, sự kiện được nhắc đến nhiều nhất từ nửa cuối năm 2008 đến nay chính là cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ Mỹ và lan ra khắp thế giới, kéo theo sự suy giảm trầm trọng của nền kinh tế toàn cầu.
80 năm sau cuộc Đại Suy thoái, nước Mỹ giờ đây lại đang đứng trước một cuộc khủng hoảng trầm trọng. Tuy vậy nếu như cuộc khủng hoảng trước đây đã dữ dội và gây nhiều thảm kịch thì thì cuộc khủng hoảng tại Mỹ hiện nay là lớn hơn và phức tạp hơn nhiều. Nếu như cuộc khủng hoảng đầu thập niên 30 diễn ra bởi nó không được dự trù, các cơ cấu tài chính còn quá sơ sài, chính phủ Hoa Kỳ đã không phản ứng thích đáng và kịp thời thì lần này nó đã tới mặc dù người ta đã biết trước và cố gắng ngăn ngừa, nó tiếp tục gia tăng mặc cho những biện pháp cứu nguy được đưa ra quả quyết. Nếu như cuộc khủng hoảng 1929 – 1932 chỉ giới hạn trong một số nước phát triển, chủ yếu là Hoa Kỳ và Tây Âu thì cuộc khủng hoảng hiện nay đã lan rộng ra toàn thế giới. Vậy nguyên nhân nào đã đưa nền kinh tế hàng đầu thế giới rơi vào cuộc khủng hoảng trầm trọng này? Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính này đến Việt Nam ra sao? Bài viết này đi sâu vào phân tích nguyên nhân và ảnh hưởng đến Việt Nam của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008.
I. Nguyên nhân
Trên thực tế, cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 tại Mỹ lần này là biểu hiện rõ nét nhất của một quá trình khủng hoảng từ rất lâu trước đó. Những mốc sự kiện chính trong chuỗi khủng hoàng này diễn ra như sau:
• Năm 2002-2004: Giá cả ở các bang Arizona,California, Florida, Hawaii, và Nevada tăng trên 25% một năm. Sự bùng nổ nhà đất ở Mỹ bắt đầu.
• Năm 2005: Bong bóng nhà đất ở Mỹ vỡ vào tháng 08/2005. Thị trường bất động sản tạm gián đoạn trên một vài bang ở Mỹ vào cuối mùa hè năm 2005 khi tỷ lệ lãi suất tăng từ 1% lên đến 5.35% do có nhiều nhà kinh doanh bất động sản đã đánh giá thấp thị trường.
• Năm 2006: Thị trường bất động sản tiếp tục suy giảm. Giá giảm dẫn đến một lượng nhà dư thừa đáng kể. Chỉ số Xây dựng Nhà ở tại Mỹ hồi giữa tháng 08 giảm hơn 40% so với một năm trước đó.
• Năm 2007: Kinh doanh bất động sản tiếp tục thất bại. Số lượng nhà tồn ước tính cao nhất từ năm 1989. Ngành kinh doanh bất động sản suy giảm với hơn 25 tổ chức cho vay dưới chuẩn tuyên bố phá sản. Gần 1,3 triệu bất động sản nhà ở bị tịch thu để thế chấp nợ, tăng 79% từ năm 2006. Thư ký bộ tài chính Mỹ gọi bong bóng bất động sản lần này là “mối nguy hiểm ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế”.
• Năm 2008: Và điều gì đến cũng phải đến. Nửa cuối năm 2008 danh sách các tổ chức tài chính bị phá sản hay phải sáp nhập nối đuôi nhau xuất hiện. Có thể kể đến sự phá sản của Lehman Brothers; Merrill Lynch được bán cho Bank of America; Hai tập đoàn Fannie Mae và Freddie Mac nằm dưới quyền kiểm soát của Cục dự trữ liên bang hay AIG phải vay 85 tỷ USD cũng từ Cục dự trữ liên bang để tránh phá sản.
Qua những mốc sự kiện này có thể thấy cuộc khủng hoảng không phải là quá bất ngờ với giới tài chính Mỹ nói riêng và thế giới nói chung. Nó là kết quả của một chuỗi những rủi ro liên tiếp mà các tổ chức tài chính, ngân hàng ở Mỹ tạo ra cho chính mình. Có thể tóm lại một số nguyên nhân chính đã dẫn đến cuộc khủng hoảng tất yếu này ở Mỹ là: Cho vay dưới chuẩn, mua bán khống trục lợi, thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ, khủng hoảng niềm tin và khoảng cách giàu cùng kiệt – văn hóa kinh tế sai lệch.
Thứ nhất, khủng hoảng bắt nguồn từ việc cho vay dưới chuẩn. Có thể nói một cách đơn giản là từ lâu nay người dân Mỹ có thói quen vay tiền từ các ngân hàng để mua nhà, với thời hạn hợp đồng từ 10 năm đến 30 năm. Đó là một hành động bình thường. Nhưng trong 10 năm trở lại đây do thị trường nhà đất phát triển mạnh mẽ nên các ngân hàng và các tổ chức cho vay đã ào ạt tiếp thị tạo ra những hợp đồng cho vay không đạt tiêu chuẩn và khuyến khích cả những người không đủ khả năng tài chính cũng đi vay tiền để mua nhà.
Ngoài ra các tổ chức cho vay còn “sáng chế” ra những hợp đồng có lãi suất rất thấp trong những năm đầu và sau đó điều chỉnh lại theo lãi suất thị trường. Hậu quả là một số lớn hợp đồng cho vay không đòi được nợ. Nguy hại hơn nữa là các tổ chức tài chính phố Wall đã gom góp các hợp đồng cho vay bất động sản này lại làm tài sản bảo đảm, để phát hành trái phiếu ra thị trường tài chính quốc tế. Các loại trái phiếu này được mệnh danh là “Mortgage backed securities – MBS”, một sản phẩm tài chính phái sinh được bảo đảm bằng những hợp đồng cho vay bất động sản có thế chấp. Và nó được các ngân hàng, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư, quỹ hưu trí trên toàn thế giới mua mà không biết rằng các hợp đồng cho vay bất động sản dùng để bảo đảm là không đủ tiêu chuẩn.
Trong khi đó, vài năm trở lại đây thị trường bất động sản liên tiếp hạ nhiệt, người đi vay đã không có khả năng trả được nợ lại cũng rất khó bán bất động sản để trả nợ, và kể cả bán được thì giá trị của bất động sản cũng đã giảm thấp tới mức không đủ để thanh toán các khoản còn vay nợ. Hậu quả là một số lớn hợp đồng cho vay bất động sản dùng để bảo đảm cho các trái phiếu MBS là nợ khó đòi, các trái phiếu MBS mất giá trên thị trường thứ cấp, thậm chí không còn mua bán được trên thị trường, khiến cho các ngân hàng, các nhà đầu tư nắm giữ những trái phiếu này không những bị lỗ nặng và mất cả khả năng thanh toán.
Điều này làm cho giá chứng khoán sụt giảm mạnh. Các ngân hàng đầu tư mặc dù không nắm giữ toàn bộ rủi ro nhưng cũng trực tiếp hay gián tiếp duy trì một số danh mục chứng khoán liên quan đến bất động sản. Hậu quả là hàng loạt ngân hàng đầu tư lần lượt báo cáo các khoản lỗ kinh doanh.
Thứ hai, khủng hoảng từ hành vi mua bán khống trục lợi. Các nhà đầu cơ đoán chắc rằng giá cổ phiếu của những tập đoàn liên quan đến cho vay dưới chuẩn sẽ sụt giảm đã ồ ạt vay những cổ phiếu này rồi ồ ạt bán ra. Quá trình này tạo nên một áp lực giảm giá lớn không gì cứu vãn nổi. Và khi giá trị các cổ phiếu này giảm đến một mức nào đó, họ sẽ mua lại và trả về nơi cho vay kèm theo một ít phí, số tiền chênh lệch còn lại họ sẽ hưởng trọn.
Không dừng lại ở đó, các nhà đầu cơ còn nghĩ ra cách mua bán khống đến hai lần. Tức là họ không cần vay cổ phiếu của các tập đoàn nữa nhưng vẫn ra lệnh bán. Sau đó, trong thời gian ba ngày họ sẽ tìm cách mua lại số lượng cổ phiếu đã bán kia để hưởng chênh lệch do giá cổ phiếu giảm mạnh. Thực tế hình thức này có thể thực hiện được do các nhà đầu cơ đã lợi dụng khe hở: mua bán ba ngày sau mới phải giao cổ phiếu.
Thứ ba, khủng hoảng do thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ. Việc người dân có thói quen vay tiền ngân hàng để mua bất động sản, trong khi các công ty thì có tiền mà các ngân hàng lại khuyến khích người dân vay tiền của mình đã dẫn đến hệ quả: Các công ty đưa ra danh mục cho vay để các ngân hàng đầu tư dựa vào đó phát hành cổ phiếu để vay tiền. Từ đó các ngân hàng có lượng vốn lớn cho người dân vay mượn. Điều đó cũng có nghĩa là tiền của các công ty dễ dàng hơn trong việc tiếp cận với những người có nhu cầu. Về phần các ngân hàng đầu tư, trên cơ sở các danh mục cho vay họ chia ra làm các loại như rủi ro ít và rủi ro cao, tùy vào định mức tín nhiệm. Nhà đầu tư vì thế cũng có nhiều lựa chọn cho sự mạo hiểm của mình, thậm chí họ còn có thể lựa chọn loại cổ phiếu không có định mức tín nhiệm với khả năng thu lãi cao nhưng rủi ro rất lớn.
Vì thế rủi ro cho vay đã được chuyển từ bên cho vay là các công ty tài chính sang ngân hàng và các nhà đầu tư. Các nhà đầu tư lắm tiền trên thế giới thì lại đổ khá nhiều tiền của vào mua cổ phiếu loại này, nhờ vậy đã cung cấp một lượng vốn lớn cho thị trường bất động sản ở Mỹ tăng nóng.
Sai lầm là ở chỗ “…Hệ thống tài chính của Mỹ đã không thực hiện được hai trách nhiệm chính của mình đó là quản lý rủi ro và phân chia vốn. Cả hệ thống tài chính Mỹ đã không làm những gì mà nó đáng ra phải làm - chẳng hạn như tạo ra các sản phẩm để giúp người Mỹ quản lý được những rủi ro nguy hiểm nghiêm trọng của mình, như là giữ lại được nhà khi mức lãi suất cho vay tăng cao hay khi giá nhà rớt giá” (Giáo sư kinh tế Joseph Stiglitz, người được giải thưởng kinh tế Nobel kinh tế 2001).
Thứ tư, khủng hoảng do khủng hoảng niềm tin. Năm 1932, tiếp nhận nước Mỹ trong tình trạng hoảng loạn sau cuộc Đại Suy thoái, Franklin D. Roosevelt đã thực hiện những cải cách toàn diện, triệt để về pháp luật và bộ máy quản lý kinh tế. Cuối cùng ông cũng thành công xuất sắc trong việc đưa nước Mỹ vượt qua được sự sợ hãi, lấy lại được niềm tin.
Gần 80 năm sau những cải cách của chính phủ Franklin D. Roosevelt, nước Mỹ một lần nữa trước nguy cơ của một cuộc khủng hoảng niềm tin trầm trọng. Các nhà đầu tư không chỉ lo ngại về môi trường đầu tư mà còn mất niềm tin vào khả năng giám sát thị trường của chính phủ.
Tháng 2 năm 2008, sau sự sụp đổ của Bear Stearns và những thông báo liên tục về sự đổ vỡ của thị trường bất động sản, Ben Bernanke, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, vẫn tỏ ra tin tưởng vào sự phát triển ổn định của thị trường.
Chỉ vài ngày trước khi chính phủ Mỹ buộc phải cứu Fannie Mae và Freddie Mac, Hank Paulson, Bộ trưởng Bộ Ngân khố Mỹ còn tuyên bố là hai công ty này có đủ vốn để chống chọi với khủng hoảng.

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 

Huynm

New Member
Re: Tiểu luận Khủng hoảng tài chính Mỹ - Nguyên nhân và sự ảnh hưởng đến Việt Nam

cho mình xin link download tài liệu này với ạ
 

daigai

Well-Known Member
Re: [Free] Khủng hoảng tài chính Mỹ - Nguyên nhân và sự ảnh hưởng đến Việt Nam

Link mới update, mời bạn xem lại bài đầu
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top