Shiri_Huang

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối




1. Đặt vấn đề
Thời kỳ tiền sử và sơ sử, người Việt cổ đã quan niệm về linh hồn và có niềm tin về thế giới bên kia, con người đã nhận thức về cái chết, từ đó đặt nhiều tục lệ, nghi lễ khi một người nào đó qua đời. Ví dụ, từ xa xưa, người Việt cổ đã biết chôn người chết trong hang hay gần bếp lửa cùng với đồ tuỳ tang (điều này thể hiện được một phần địa vị xã hội của người chết). Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu cũng đã phát hiện ra nhiều mộ táng với nhiều cách chôn khác nhau ở các di tích văn hoá cổ như nền văn hoá Hoà Bình ở tỉnh Hoà Bình, nền văn hoá Bắc Sơn ở tỉnh Lạng Sơn…
Qua tiến trình lịch sử dân tộc và lịch sử văn hoá lâu dài, đến xuyên suốt những thời kỳ sau, thời kỳ văn hoá Việt Nam tiếp xúc và giao lưu với văn hoá khu vực, thì trong quan điểm tư duy của người Việt đã phần nào bị ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ bởi các nền văn hoá bên ngoài, đặc biệt là nền văn hóa Trung Hoa. Điều này không những không làm mất đi những giá trị văn hoá truyền thống mà còn bồi đắp thêm để văn hoá truyền thống phong phú đặc sắc hơn. Nó ảnh hưỏng rộng khắp đến các lĩnh vực văn hoá của người Việt như: tín ngưỡng, phong tục, nghệ thuật… Tang ma là một trong những yếu tố của tín ngưỡng, phong tục người Việt, do đó, nó cũng chịu ảnh hưởng phần nào của việc giao lưu, tiếp biến văn hoá nhưng vẫn mang đậm truyền thống dân tộc. Nghiên cứu về nghi thức tang ma không phải là một đề tài mới, vì tang ma là một trong những nghi lễ vòng đời quan trọng của con người, ở mọi nơi hàng ngày con người vẫn phải chết đi, vì thế các phong tục tang ma không xa lạ với chúng ta. Hơn nữa, phong tục tang ma cũng đóng vai trò quan trọng trong nền văn hoá ở nước ta.
Trong phong trào nếp sống mới, đặc biệt là ở đô thị, việc tang ngày nay được đơn giản hóa rất nhiều. Những tục lệ, nghi thức cổ rưởm rà được lược đi nhiều, chỉ tổ chức khâm liệm rồi chuyển cữu ra phòng nghi thức để mọi người tới viếng trong khoảng hai, ba giờ, rồi tiếp đó làm lễ vĩnh biệt người quá cố, sau bài điếu văn là linh cữu được chuyển lên xe tang hướng về nghĩa trang.
Tuy nhiên, với đặc trưng của văn hoá nông thôn, kế thừa những tín ngưỡng từ xa xưa, việc tang ma tại các vùng quê vẫn mang đậm nét cổ truyền, chỉ tuỳ hoàn cảnh kinh tế mà gia giảm, thêm bớt. Để nhằm hiểu rõ và sâu sắc hơn những ý nghĩa xung quanh vấn đề tang ma ở nông thôn Việt Nam, bài viết này tìm hiểu về phong tục tang ma tại vùng quê Thái Sơn- một vùng nông thôn của huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang qua những nghi lễ truyền thống đến các quan điểm tư tưởng được tiếp nhận bên ngoài, tất cả cùng cộng hưởng để tạo nên những nghi lễ, quan niệm rất đặc sắc trong tang ma mà vẫn giữ gìn, tiếp nhận đến tận ngày nay.
Hiệp Hoà là một huyện trung du thuộc tỉnh Bắc Giang, là vùng chuyển tiếp giữa đồi núi và đồng bằng. Theo nhiều chứng tích còn ghi lại, con người đã có mặt trên vùng đất Hiệp Hoà ngay từ thời kỳ đồ đá, những xóm làng đầu tiền hình thành dọc hai bên sông Cầu. Năm 2006, dân số của huyện là 300.000 người, số người trong độ tuổi lao động chiếm 44,8% dân số, tuy nhiên chủ yếu là lao động nông nghiệp. Lao động chưa có chuyên môn kỹ thuật chiếm 95%.
Làng Quế Sơn là một làng cổ của xã Thái Sơn thuộc huyện Hiệp Hoà có truyền thống từ rất lâu đời. Tại đây có di tích Lăng họ Ngọ là nơi lưu giữ thi hài Phương Quận công Ngọ Công Quế được xây dựng từ năm 1697. Như vậy có thể thấy, cùng với tiến trình phát triển của lịch sử, văn hoá làng xã vẫn lưu giữ, bảo tồn và phát triển những giá trị truyền thống. Những đặc trưng đó được thể hiện trong mỗi gia đình với gia phong đã được chuẩn mực hoá từ lâu. Trong quá trình đổi mới kinh tế, làng xã có nhiều biến động nhưng dường như vẫn cố gắng gìn giữ những phong tục, tập quán, truyền thống của làng như: ma chay, cưới hỏi, lễ hội…
Dựa vào phương pháp thu thập thông tin phỏng vấn sâu ( 5 đối tượng là các thành viên của làng Quế Sơn được lựa chọn có tính tới yếu tố lứa tuổi, giới, uy tín, xã hội, vai trò trong làng xã) và phương pháp quan sát ( 2 đám tang tại làng), tác giả đi vào tìm hiểu tính cố kết trong đời sống văn hoá- tín ngưỡng mà cụ thể là hoạt động thực thao phong tục tang ma, một hoạt động chứa nhiều giá trị tín ngưỡng, niềm tin, ảnh hưởng trực tiếp tới lối sống nông thôn, việc thực hành tín ngưỡng, hình thành văn hoá làng xã nơi đây. Đồng thời nghiên cứu những yếu tố tác động qua lại giữa niềm tin về cái chết trong việc thực hành nghi lễ tang ma, nghi lễ thực thao và lối sống trong cộng đồng làng xã.
2. Khái niệm tang ma
Theo Vinh Hồ, tác giả cuốn “Tang ma theo tục lệ cổ truyền”: Tang là sự đau buồn khi có người thân mới chết, là lễ chôn cất người chết (an táng, mai táng), là dấu hiệu (áo, mũ, khăn…) để tỏ lòng thương tiếc người chết.
Tang chế là phép tắc quy định việc đưa đám và để tang.
Tang lễ ( lễ tang) là nghi lễ chôn cất người chết.
Từ đó có những từ: tang phục, tang sự, tang gia, tang chủ, đám tang, để tang, bịt khăn tang, đeo băng tang, mãn tang, xả tang, tống tang, hộ tang…
Ma ( ma chay) là lễ chôn cất và cúng người chết theo tục lệ cổ truyền. Đám ma còn gọi là đám tang.
Như vậy: tang ma có nghĩa là lễ chôn cất cúng kính cùng những quy định về việc để tang và đưa đám người thân mới chết.
Khi có tang ma, người ta thường đem tiền hay đồ lễ đến việc để tỏ lòng thương tiếc người chết và thăm hỏi, chia buồn cùng tang quyến, gọi là phúng viếng hay phúng điếu. Điếu ca là bài thơ tỏ lòng thương tiếc người đã chết. Điếu văn là bài văn tỏ lòng thương tiếc người chết (đọc khi làm lễ tang).
Con người sinh ra, lớn lên, học hành, thi cử, dựng vợ gả chồng, sinh con đẻ cái, tạo lập công danh sự nghiệp, dù có hiển hách đến đâu cuối cùng cũng theo quy luật sinh lão bệnh tử trở về cát bụi, để lại bao niềm tiếc thương vô hạn cho người ở lại.
Trong việc tang ma, người Việt Nam bị giằng kéo giữa hai thái cực: Một bên quan niệm coi cái chết là bước vào cuộc sống mới ở thế giới bên khác, nên việc tang ma được coi là việc đưa tiễn người chết sang một thế giới khác, một kiếp đầu thai khác. Một bên quan niệm trần tục coi chết là hết nên việc tang ma thể hiện niềm tiếc thương đau xót của những người còn sống với người đã chết.
Khác với Vinh Hồ, Nguyễn Đăng Duy trong cuốn “ Văn hoá tâm linh” thì cho rằng: Tang là cây dâu, nương dâu, ta thường nói cuộc bể dâu để chỉ về sự biến đổi tang thương, đó là sự tiêu biến, tiêu đi, mất đi. Tang ma chỉ sự mất đi, biến đổi của đời người. Người Việt xưa thường quan niệm cái chết theo Nho giáo, “ Tử tất quy thổ, cốt nhục tê ư hạ âm vi giả thổ, kỳ khí phát dương ư thượng vi chiêu minh”.( Tức là chết tất trở về với đất, xương thịt xuống thấp tan biến vào trong đất, còn khí dương bay lên cao trong sáng rực rỡ).
Theo tác giả Nguyệt Hạ trong cuốn “Phong tục hôn lễ- tang lễ- tế lễ Việt Nam” thì Tang là nghi lễ chôn cất người chết để bày tỏ lòng thương tiếc đối với người qua đời. Khi loài người còn ở thời sơ khai, lạc hậu, việc chôn cất không được đặt ra và thường mang vất ở rừng sâu hay vực thẳm. Trải qua các thời đại, nền văn hoá mỗi ngày được nâng cao và có lẽ trước tiên việc tang lễ được áp dụng cho các bậc cha mẹ, tức là người gần gũi nhất và có công ơn dưỡng dục nhiều nhất, sau đó mới phổ biến dần dần đến họ hàng thân thuộc và trở thành một nghi lễ không thể thiếu trong cuộc sống của con người.
Tang lễ cũng thể hiện rất rõ tính cộng đồng: nhà có tang, việc thì nhiều mà người nhà không còn đủ tỉnh táo, minh mẫn nữa, nên bà con làng xóm bao giờ cũng chạy tới giúp rập, lo toan chỉ bảo mọi việc. Người Việt Nam quan niệm “ bán anh em xa mua láng giềng gần” nên khi nhà có người mất, hàng xóm láng giềng không những trợ giúp nhau mà còn để tang nhau: Họ dương ba tháng/ Láng giềng ba ngày; hay Láng giềng còn để ba ngày/ Chồng cô, vợ cậu một ngày cũng không.
Lễ thức trong tang ma được coi là lễ thức quan trọng bậc nhất để đưa ông bà, cha mẹ vừa mất về gặp tổ tiên và gia nhập vào hàng các vị tổ tiên. Nghi lễ này chính là biểu hiện của đạo hiếu, “uống nước nhớ nguồn”, tinh thần cộng đồng của người dân nông thôn nói riêng và người dân Việt Nam nói chung.
3. Mô tả lễ tang tại Hiệp Hoà- Bắc Giang
Với ý thức lấy tâm thành thương tiếc người quá cố làm trọng, giảm thiểu những nghi lễ thiên về hình thức- mặc dù các hình thức ấy được đặt để với chủ ý muốn giáo dục con cháu không quên ơn nghĩa của người đã sinh thành- dần dần sau này tang lễ ( của bất kỳ người nào) cũng đã giảm thiểu nhiều, phù hợp với xã hội.
Sách Thọ Mai gia lễ gồm trên 40 nghi thức nhưng trong những gì quan sát được của đám ma tại Hiệp Hoà, Bắc Giang, thì những nghi thức này đã được giản lược đi nhiều, cụ thể, tác giả bài viết mô tả một số nghi lễ chính như sau:
3.1. Lễ mộc dục



Đây là một trong các nghi lễ quan trọng để đưa tiễn người quá cố sang thế giới bên kia. Qua ảnh có thể mọi người chăm sóc di hài người chết một cách cẩn thận và tỉ mỉ. Trước khi mặc quần áo là lễ tắm gội. Thông thường, lúc tắm gội cho người chết thường vừa để sẵn một con dao nhỏ, một vuông vải (khăn), một cái lược, một cái thìa, một ít đất ở đồ ông rau, một nồi nước ngũ vị hương và một nồi nước nóng khác. Cha chết thì con trai vào tắm rửa, mẹ chết thì con gái vào tắm rửa. Lấy vuông vải dấp vào nước thơm rồi lau ngũ vị, lau mặt, lau mình cho sạch rồi lấy lược chải tóc lấy sợi vải buộc tóc, lấy khăn khác lau hai tay hai chân, lại lấy dao cắt móng tay, móng chân, mặc quần áo cho chỉnh, đeo găng tay và tất chân. Móng tay và móng chân gói lại, trên để trên, dưới để dưới, để vào trong quan tài. Dao, lược, thìa và nước đem đi chôn; rước thi thể đặt lên giường.
Trong bức ảnh trên, người chết là một người phụ nữ cao niên, được thọ nên mặc y phục màu đỏ
“ Khi chồng tui mất thì các con tui đi làm ăn xa chưa về được, tui phải tự tay tắm rửa, thay quần áo cho ông ấy. Tội lắm! Có các dì mua quần áo mới cho ông ấy chứ tui có tâm trí nào mà nghĩ đến nữa. Theo các đám khác thì tui tắm cho ông ấy bằng nước thơm, lần đó là tui lấy nước ấm có bỏ lá mùi vào. Lá chanh cũng được. Vừa lau người mà tui không dám khóc, người ta bảo trước lúc phát tang không được khóc, sợ người chết lưu luyến mà không siêu thoát được.” (Bà X, phiếu số 15).
Có thể thấy, nghi lễ đặt ra là một chuyện và việc thực hành nghi lễ lại cũng khác bởi tuỳ vào từng hoàn cảnh, điều kiện mà việc thực hành nghi lễ đó có thống nhất và hệ thống hay không.
3.2. Lễ phạn hàm hay lễ ngậm hàn


Nghi lễ này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Theo tục xưa, bỏ gạo và tiền vào miệng để tránh tà ma, ác quỷ đến cướp đoạt, để tiễn vong hồn đi đường xa được siêu thoát. Theo “ Thọ mai gia lễ”, lễ này được tiến hành như sau: lấy ít gạo nếp xát cho sạch, ba đồng tiền mài cho sáng ( nhà giàu có thể dùng vàng hay ngọc trai). Tang chủ vào quỳ khóc, người chấp sự cũng quỳ, cáo từ rằng : “nay xin phạn hàm, phục duy hâm nạp”. Người chấp sự lần lượt xướng : “Sơ phạn hàm, tái phạn hàm, tam phạn hàm”. Tang chủ ba lần, mỗi lần xúc ít gạo và một đồng tiền tra vào mồm bên phải rồi bên trái, cuối cùng vào giữa. Xong, bóp mồm lại, phủ mặt như cũ.
Nghi thức này tiến hành trong đám tang đã phản ánh quan niệm của người dân về sự tồn tại của linh hồn và cuộc sống của linh hồn sau khi chết. Có nhiều quan niệm của người dân xung quanh việc cho tiền và gạo vào miệng người chết:
“tui cho rằng cho tiền và gạo vào miệng người chết là để người đó luôn no đủ ở thế giới bên kia, không bị trở thành ma đói mà đi quấy nhiễu người sống”. (Chị P, phiếu số 7 ).
“ Cô thì có hai ý kiến cho cái việc mà bỏ gạo và tiền vào miệng người chết, một là làm lương thực và lộ phí đi sang thế giới bên kia; hai là cho người chết có vốn để bắt đầu cuộc sống bên kia”. (Bà Q, phiếu số 2).
Có thể thấy, trong tâm tưởng của người dân nơi đây, họ đều coi linh hồn của con người vẫn tồn tại sau khi chết và những linh hồn này cũng có đời sống sinh hoạt như người sống. Điều đó được thể hiện qua hành vi cho gạo và tiền vào miệng người chết trước khi khâm liệm, bởi vì, linh hồn người chết cũng cần ăn, mặc, chi tiêu. Thế giới bên kia đó được mô phỏng theo đời sống thực vì các linh hồn cũng có đời sống và sinh hoạt như dương gian, nên người thân còn chôn theo thi hài người chết các đồ dùng sinh hoạt hàng ngày mà lúc sống họ đã sử dụng để cho các linh hồn còn sử dụng ở thế giới bên kia.
“ Khi anh trai tui mất, tui có bỏ vào trong quan tài của anh ấy bộ bài tam cúc mà anh ấy vẫn hay chơi. Cho anh ấy xuống đó đỡ buồn”. ( Anh L, phiếu số 4).
3.3. Lễ khâm liệm nhập quan


Theo nghi lễ truyền thống, lễ khâm liệm nhập quan chia thành hai mảng: khâm liệm và nhập quan. Tuy nhiên, để giản tiện bớt các nghi lễ rườm rà, không cần thiết, việc khâm liệm và nhập quan được cho vào làm một nghi thức chung.
Khi đưa người chết vào áo quan, theo những điều kiêng kỵ, người đang mang bầu, người cùng tuổi ( với người chết), người yếu bóng vía phải tránh mặt, có thể phải sang nhà khác, chờ lúc nhập quan xong thì về.
Theo dân gian, khi nhập quan phải chọn giờ, tránh chạm tuổi người chết. Người ta thường nhờ thầy xem giờ để không bị trùng. Các con theo thứ bậc quỳ hai bên, trai bên trái, gái bên phải, người chấp sự hô: “Được ngày giờ, xin làm lễ nhập quan”. Người ta trải tạ quan sát đáy hòm, khiêng thây đã liệm từ từ đặt vào, gói lại lần chót.
Xung quanh việc nhập quan này, có nhiều quan niệm và kiêng kỵ khác nhau.

Vua Hùng Vương thứ 18 muốn truyền ngôi, cho gọi các con vào chầu. Vua nói: "Ta muốn truyền ngôi cho kẻ nào làm ta vừa ý, cuối năm nay mang trân cam mỹ vị đến để tiến cúng tiên vương cho ta được tròn đạo hiếu thì sẽ được ta truyền ngôi".

Lang Liêu nhà nghèo, được thần báo mộng: "Các vật trên trời đất và mọi của quý của người không gì bằng gạo. Gạo có thể nuôi người khỏe mạnh mà ăn không bao giờ chán, các vật khác không thể hơn được. Nay đem gạo nếp làm bánh, cái hình tròn, cái hình vuông để tượng trưng hình trời đất rồi dùng lá bọc ngoài, ở trong cho mỹ vị để ngụ ý công đức sinh thành lớn lao của cha mẹ ".

Lang Liêu làm theo lời thần.

Bánh dâng lên vua, được vua khen vừa ngon vừa có ý nghĩa. Lang Liêu được vua truyền ngôi.

Từ đó, đến ngày Tết thiên hạ thường làm bánh giầy bánh chưng dâng cúng cha mẹ.

Gậy tre tròn tượng trưng cho trời. Theo thuyết Âm Dương của Nho giáo thì trời thuộc về dương, chỉ người cha. Gậy vông vuông tượng trưng cho đất. Đất thuộc về âm, chỉ người mẹ.

Vì vậy cho nên đưa đám cha phải chống gậy tròn, đưa đám mẹ thì chống gậy vuông.

Con gái, con dâu luôn luôn đi đằng sau linh cữu cha mẹ, dưới tấm phương du bằng vải trắng dùng để che nắng. Khi nào được hiệu lệnh thì con gái trưởng và con dâu trưởng phải vừa khóc vừa lăn đường cho tăng thêm phần thảm thiết.

Các gia đình theo đạo Phật thường mời nhà sư, bà vãi đến tụng kinh, cầu nguyện cho linh hồn người chết được siêu sinh tịnh độ. Lúc đưa đám, các bà vãi đội cầu bát nhã, nhà sư gõ mõ tụng kinh, đi đằng trước linh cữu để dẫn đường linh hồn sang Tây phương cực lạc.

Dọc đường đám tang có người rắc vàng mã . Người ta tin rằng có nhiều ma quỷ theo đuổi ám hại linh hồn người chết. Phải rắc vàng mã để tống tiễn chúng mới buông tha.

Tại huyệt chôn, nhiều nhà làm lễ tế thổ thần nơi đây.

Nhà có chức tước danh vọng còn làm lễ đề chữ , nghĩa là viết nốt chữ chủ còn bỏ dở. Bộ thần chủ được sửa soạn từ trước nhưng người ta chỉ viết chữ thần và ba nét ngang của chữ chủ, cố ý để thiếu nét chấm và nét sổ. Hiếu chủ mời một vị khoa bảng, có chức tước đứng ra làm lễ, cầm bút chấm và sổ cho thành chữ chủ. Thần chủ viết xong được đặt lên linh xa, rước về thờ tại nhà.

Đợi đúng giờ tốt thì hạ huyệt. Huyệt được thầy địa lí tìm phương nhắm hướng trước, lúc này chỉ xê xích linh cữu, đặt cho thật đúng.

Lấp mộ xong thì đốt nhà táng, minh tinh, cầu bát nhã, thuyền bát nhã và phương tướng.

Nếu người chết là Phật tử thì có nhà sư tụng kinh gõ mõ và các bà vãi cầm hương niệm Phật đi quanh mộ. Mỗi người cầm một hòn đất ném vào mộ, gọi là đi dong nhan.

Dong nhan nghĩa là gì ? Các học giả không thống nhất ý kiến. Có người hiểu là tưởng nhớ đến nét mặt người chết, người khác lại hiểu là lấp mặt người chết một lần cuối(5).

Những ngày tiếp theo, con cháu đem trầu rượu ra thăm mộ, gọi là ấp mộ, ngụ ý làm cho người nằm dưới mộ bớt lạnh lẽo. Đến ngày thứ ba làm lễ mở cửa mả. Con cháu đắp lại ngôi mộ, mời thầy phù thủy yểm bùa trừ ma quỷ.

Những gia đình theo Phật giáo, sau đám tang cứ bảy ngày lại làm một tuần chay, tụng kinh tại nhà hay tại chùa. Đến tuần chay thứ bảy, cũng gọi là cúng 49 ngày, thì ngừng.

Được 100 ngày làm tuần bách nhật, còn gọi là tuần tốt khốc nghĩa là từ nay trở đi thôi không khóc nữa. Mỗi năm đến ngày mất, con cháu cúng giỗ để tưởng nhớ. Giỗ đầu gọi là tiểu tường. Năm sau làm lễ đại tường. Sau 27 tháng thì làm lễ trừ phục, hết hạn để tang. Trong thời hạn tiểu tường và đại tường, đến rằm tháng bảy tuần trung nguyên người ta hay đốt vàng mã cho người chết dùng, có khi đốt cả hình nhân, thằng Quýt con Nhài, cho xuống âm phủ hầu hạ người chết.
Khi có người chết oan, bị giết, chết bất đắc kì tử, hay chết nhằm giờ xấu thì phải làm chay để siêu độ vong hồn. Đàn chay thường được tổ chức ngay tại chỗ người bị chết.

Lễ làm chay dung hợp cả Phật giáo và Đạo giáo. Trên đàn tế bày tượng tam bảo, tượng tam phủ, hai bên có tranh thập điện, ở giữa có tranh quan thánh. Buổi lễ do nhà sư hay pháp sư làm chủ lễ. Mục đích của lễ là gọi hồn người chết về, cầu Phật để xin phổ độ, cầu tam phủ để xin xá tội.

Nhiều làng quê miền Bắc có tục cải táng (bốc mộ), nghĩa là chôn sang khu đất mới. Lí do là vì sau vài ba năm mộ cũ bị sụt lở, ngập nước, hay vì chôn ở nơi xa con cháu muốn đưa về quê nhà, cũng có khi chỉ vì tin thầy địa lí, phù thủy.

Con cháu làm lễ cáo từ đường rồi khai mộ, mở nắp quan tài. Tất cả xương cốt được nhặt ra, tẩy rửa bằng nước thơm, lau khô, xếp vào một cái tiểu sành, rồi chôn sang đất khác. Trước khi chôn làm lễ cúng thổ thần mới.

Người Vsiệt Nam quan niệm rằng sống gửi thác về (sinh kí tử quy). Chết là trở về với tổ tiên bên kia thế giới. Ai cũng mong muốn cho cha mẹ trở về được thanh thoát, may mắn.

Người con có hiếu phải thờ cha mẹ đã chết cũng như lúc cha mẹ còn sống, thờ khi mất như lúc hãy còn (sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn).

Nhưng vì câu nệ vào tục Tàu nên các nghi thức trở thành rườm rà, tốn kém, trọng hình thức giả tạo.

Ngày nay đám tang được tổ chức gọn gàng. Hồn bạch, thể kì, minh tinh được thay bằng tấm ảnh dáng người chết. Linh cữu được chở bằng xe hơi. Nhiều nghi thức, hủ tục bị xoá bỏ (thương vay khóc mướn, lăn đường, cờ quạt rầm rộ, kèn trống ầm ỹ). Tục đốt vàng mã vẫn còn, thậm chí còn gia tăng ở một vài nơi.

Đua nhau vén tay áo sô đốt nhà táng giấy, đốt xe hơi, tủ lạnh, giấy tiền đô la...

Thời hạn để tang được rút ngắn. Mồ mả xây đắp cẩn thận, không cần cải táng.

Nhiều gia đình cho thiêu xác, giữ tro để thờ tại chùa.


Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

Các chủ đề có liên quan khác

Top