daigai

Well-Known Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chƣơng 1: TƢ DUY BIỂN CỦA NGƢỜI VIỆT NAM VÀ CHÍNH SÁCH BIỂN
CỦA TRIỀU NGUYỄN TRƢỚC KHI THỰC DÂN PHÁP XÂM LƢỢC .............5
1.1. Tƣ duy biển của ngƣời Việt trƣớc thế kỷ XIX ................................5
1.1.1. Tư duy biển của người Việt trước thế kỷ X........................................5
1.1.2. Tư duy biển của người Việt từ thế kỷ X đến thế kỷ XV.....................8
1.1.3. Tư duy biển của người Việt từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX......11
1.2. Chính sách biển của triều Nguyễn .......................................................17
1.2.1. Chính sách đóng cửa với phương Tây................................................17
1.2.2. Chính sách phòng ngự bờ biển...........................................................24
1.2.2.1. Tuần tra trên biển ..............................................................................26
1.2.2.2. Xây lực lượng thủy quân và các pháo đài ven biển...........................29
1.2.3. Chính sách tiễu trừ hải phỉ .................................................................40
Chƣơng 2: TƢ DUY HƢỚNG BIỂN CỦA CÁC NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
NỬA CUỐI THỂ KỶ XIX ................................................................................52
2.1. Sự cần thiết phải khai phóng đất nƣớc................................................52
2.2. Tƣ duy quân sự biển..............................................................................62
2.3. Mở thƣơng cảng biển.............................................................................76
2.4. Phát triển kinh tế biển...........................................................................84
2.4.1. Lập các hội buôn..................................................................................84
2.4.2. Khuyến khích hoạt động thương mại trên biển .................................88
2.4.3. Khai thác tài nguyên biển....................................................................90
2.5. Mở lớp học dạy về biển .........................................................................91
KẾT LUẬN..................................................................................................100
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................101
PHỤ LỤC ẢNH...........................................................................................1051
MỞ ĐẦU
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực đề tài
Đề tài “Tư duy hướng biển của các nhà cải cách Việt Nam nửa cuối
thế kỷ XIX” thuộc chuyên ngành Lịch sử Việt Nam. Tƣ duy hƣớng biển là
một nội dung nằm trong tƣ tƣởng canh tân đất nƣớc cuối thế kỷ XIX. Trong
toàn bộ những tƣ tƣởng canh tân thì tƣ duy về biển đã đƣợc các nhà cải cách
đặc biệt quan tâm. Tuy vậy, việc nghiên cứu về tƣ duy hƣớng biển của các
nhà cải cách Việt Nam cuối thế kỷ XIX ít đƣợc các nhà nghiên cứu chú ý đến
và chƣa có một đề tài nghiên cứu cụ thể nào về vấn đề này. Nghiên cứu về tƣ
tƣởng canh tân đất nƣớc ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đã có rất nhiều tác
phẩm, sách báo, bài nghiên cứu, tạp chí và các kỷ yếu hội thảo khoa học, tiêu
biểu nhƣ:
Cuốn sách “Tư tưởng canh tân đất nước dưới triều Nguyễn”, xuất bản
năm 1999 của nhóm tác giả Đỗ Bang, Trần Bạch Đằng, Đinh Xuân Lâm,
v.v..; gồm nhiều bài viết giới thiệu cuộc đời sự nghiệp và tƣ tƣởng canh tân
đất nƣớc của Nguyễn Trƣờng Tộ, Nguyễn Lộ Trạch,v.v..; những đề xuất
trong tƣ tƣởng canh tân ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX. Triều Nguyễn với trào
lƣu canh tân đất nƣớc, và trách nhiệm của triều Nguyễn trong sự thất bại của
xu hƣớng đổi mới ở Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX.
Cuốn sách “Nguyễn Lộ Trạch và di thảo”, xuất bản năm 1995, do
Nguyễn Văn Huyền biên dịch, gồm hai phần: Phần một tác giả giới thiệu về
cuộc đời và sự nghiệp của nhà cải cách Nguyễn Lộ Trạch, trong đó tác giả cố
gắng làm nổi bật lên tƣ tƣởng canh tân đất nƣớc của ông. Phần hai, tác giả tập
hợp và dịch một số tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Lộ Trạch nhƣ “Quỳ ưu
lục”, “Thời vụ sách” từ chữ Hán sang chữ Việt. Đây chính là nguồn tƣ liệu
quan trọng để nghiên cứu về những tƣ tƣởng cải cách của Nguyễn Lộ Trạch.2
Trong cuốn sách “Nguyễn Trường Tộ thời thế và tư duy cách tân”,
xuất bản năm 2001 của tác giả Hoàng Thanh Đạm đã nghiên cứu về con
ngƣời và cuộc đời của nhà cải cách Nguyễn Trƣờng Tộ; thái độ của ngƣời đời
đối với ông khi ông đang sống và sau khi ông mất; hệ thống tƣ duy cách tân
của Nguyễn Trƣờng Tộ…
Năm 1999, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội đã ấn hành cuốn
sách “Bùi Viện với sự nghiệp canh tấn đất nước cuối thế kỷ XIX” của Thế
Văn và Quang Khải. Đây là công trình nghiên cứu về cuộc đời, thân thế, sự
nghiệp của Bùi Viện, qua đó làm nổi bật lên tƣ tƣởng và hành động mới mẻ
của ông.
Cuốn sách “Đặng Huy Trứ con người và tác phẩm”, xuất bản năm
1990 của Đặng Hƣng Doanh và Bùi Văn Côn, viết về cuộc đời và sự nghiệp
viết văn của Đặng Huy Trứ, đồng thời tập hợp những tác phẩm văn học của
ông, qua đó thể hiện tƣ duy cách tân của Đặng Huy Trứ.
Cuốn sách “Phạm Phú Thứ với tư tưởng canh tân”, xuất bản năm
1995, của nhóm tác giả Phạm Phú Hạt, Lâm Quang Huyên, Mai Thúc Luân...
đề cập đến bối cảnh lịch sử, gia phả và truyền thống ham học của dòng họ
Phạm Phú - tƣ tƣởng canh tân các mặt kinh tế, khoa học kỹ thuật, giáo dục,
quốc phòng và ngoại giao... của Phạm Phú Thứ.
Các công trình nêu trên tuy đã nghiên cứu một cách khá đầy đủ về tƣ
tƣởng canh tân đất nƣớc của các nhà cải cách Nguyễn Trƣờng Tộ, Nguyễn Lộ
Trạch, Bùi Viện, Phạm Phú Thứ, Đặng Huy Trứ, v.v..; nhƣng chƣa đề cập
sâu sắc và chƣa nghiên cứu một cách có hệ thống về tƣ duy hƣớng biển của
họ.
2. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
Việt Nam là quốc gia nằm ở phía đông nam của châu Á, từ lâu biển đã
giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống kinh tế, quốc phòng của3
ngƣời Việt Nam. Hiện nay, biển đảo là một trong những vấn đề quan trọng
hàng đầu trong đời sống kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng và đối ngoại
của Đảng, Nhà nƣớc và nhân dân ta. Bởi vậy, trong việc khẳng định và bảo
vệ quyền lợi quốc gia đối với biển đảo cần đƣợc nhìn nhận từ nhiều khía
cạnh, trong đó có tiến trình về tƣ duy biển của con ngƣời Việt Nam. Đồng
thời để hƣớng tới một quốc gia kinh tế biển phát triển, điều cần thiết trƣớc
tiên đòi hỏi ngƣời Việt Nam cần có một sự nhận thức đầy đủ về biển. Chính
vì vậy, việc tìm hiểu những tƣ duy về biển của ngƣời Việt Nam trong lịch sử
là rất cần thiết. Đặc biệt vào nửa cuối thế kỷ XIX, ở nƣớc ra đã có rất nhiều
nhà cải cách đƣa ra những tƣ tƣởng tiến bộ, mang tính thời đại về vị trí, vai
trò của biển nhƣ: Nguyễn Trƣờng Tộ, Bùi Viện, Nguyễn Lộ Trạch, Phạm Phú
Thứ, và Đinh Văn Điền. Những tƣ duy mới mẻ của họ có một ý nghĩa nhất
định trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo và phát triển kinh tế biển hiện nay.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của khóa luận nhằm:
- Làm rõ một phần tƣ duy về biển của ngƣời Việt trƣớc nửa cuối thế kỷ
XIX.
- Làm rõ một phần bối cảnh kinh tế - xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX
và các chính sách biển của triều Nguyễn.
- Làm rõ tƣ duy hƣớng biển trong tƣ tƣởng canh tân đất nƣớc của các
nhà cải cách Việt Nam cuối thế kỷ XIX.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của khóa luận là những tƣ duy về biển của ngƣời
Việt trƣớc nửa cuối thế kỷ XIX; bối cảnh kinh tế - xã hội Việt Nam cuối thế
kỷ XIX và hệ thống tƣ duy hƣớng biển của các nhà cải cách Việt Nam nhƣ
Nguyễn Trƣờng Tộ, Bùi Viện, Nguyễn Lộ Trạch, Phạm Phú Thứ, Đặng Huy
Trứ…4
Phạm vi nghiên cứu của khóa luận chủ yếu nằm trong khoảng thời gian
nửa cuối thế kỷ XIX, dƣới triều vua Tự Đức (1847 – 1883), với không gian là
xã hội Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện khóa luận này, tui đã sử dụng các phƣơng pháp nghiên
cứu nhƣ: phƣơng pháp nghiên cứu lịch sử, phƣơng pháp phân tích tài liệu,
phƣơng pháp đối chiếu, phƣơng pháp so sánh, v.v...
6. Bố cục
Bố cục của khóa luận ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo
và phụ lục, gồm 2 chƣơng:
- Chƣơng 1: Tƣ duy biển của ngƣời Việt Nam và chính sách biển của
triều Nguyễn trƣớc khi thực dân Pháp xâm lƣợc.
- Chƣơng 2: Tƣ duy hƣớng biển của các nhà cải cách Việt Nam nửa cuối
thế kỷ XIX.5
Chƣơng 1
TƢ DUY BIỂN CỦA NGƢỜI VIỆT NAM VÀ CHÍNH SÁCH BIỂN CỦA
TRIỀU NGUYỄN TRƢỚC KHI THỰC DÂN PHÁP XÂM LƢỢC
1.1. Tƣ duy biển của ngƣời Việt trƣớc thế kỷ XIX
1.1.1. Tư duy biển của người Việt trước thế kỷ X
Nằm ở vùng chân dãy núi Himalaya, trong khu vực châu Á gió mùa,
nên Đông Nam Á đƣợc coi là một trong những trung tâm xuất hiện sớm của
cây lúa nƣớc. Trong lịch sử, cây lúa đã trở thành nguồn sống, là cơ sở kinh tế
chủ yếu của ngƣời Việt. Cuộc sống của ngƣời Việt đƣợc gắn liền với nƣớc và
phƣơng thức canh tác lúa nƣớc, vì vậy từ xa xƣa ngƣời Việt đã sớm bộc lộ
những tƣ duy về sông nƣớc. Sự bộc lộ đó thể hiện rõ trong các truyền thuyết
nhƣ Lạc Long Quân - Âu Cơ, Sơn Tinh - Thuỷ Tinh, Mai An Tiêm, Chử Đồng
Tử - Tiên Dung, Dã Tràng, v.v.. Các triều đình phong kiến Việt Nam cũng đã
sớm có ý thức bảo vệ chủ quyền trên biển đảo và xây dựng lực lƣợng thuỷ
quân. Nhƣng nhìn chung, cƣ dân ngƣời Việt vẫn chƣa đánh giá đầy đủ vị trí
của biển và chƣa chú ý đến biển. Tƣ duy của ngƣời Việt chủ yếu là “tư duy
đất liền”, “xa rừng nhạt biển”, coi trọng kinh tế nông nghiệp hơn là khai thác
những tiềm năng kinh tế biển.
Việt Nam có hơn 3.000 km đƣờng bờ biển và là nƣớc có chỉ số duyên
hải ISCL (Index of Sea Coastal Line) cao. Chỉ số duyên hải cao và môi
trƣờng kinh tế đảo, bán đảo là điều kiện thuận lợi để nƣớc ta có thể thiết lập
và mở rộng quan hệ giao thƣơng với thế giới bên ngoài. Tuy nhiên, ngƣời
Việt ít chú trọng khai thác biển. Việt Nam không có nền kinh tế thƣơng mại
và hàng hải phát triển, không có nền văn hoá hải dƣơng, khai phóng và hội
nhập nhƣ cƣ dân các nƣớc khu vực Địa Trung Hải hay một vài quốc gia ven
biển khác trên thế giới. Ngƣời Việt xƣa không có truyền thống đi xa và buôn
bán đƣờng dài. Ngƣời Việt có làm cảng ở sông, ở biển, nhƣng chủ yếu là để
buôn bán nội vùng, khá hơn là liên vùng trong nƣớc. Ngƣời Việt thụ động6
trông chờ ngƣời nƣớc ngoài đến buôn bán mà không chủ động đóng tàu
thuyền ra nƣớc ngoài buôn bán. Có thể thấy ngƣời Việt khá bị động trƣớc
biển. Mối liên hệ kinh tế văn hoá giữa Đại Việt với các nƣớc Đông Nam Á
hay châu Á, ngoại trừ trƣờng hợp Trung Quốc, không thực sự sâu sắc và
thƣờng xuyên. Sự hiểu biết của ngƣời Việt về địa lý, lịch sử, kinh tế các nƣớc
trên thế giới, kể cả các quốc gia láng giềng cũng rất hạn hẹp. Đó là một hạn
chế của ngƣời Việt Nam trong việc khai thác các thế mạnh và tiềm năng của
biển.
Vào những thế kỷ sau Công Nguyên, mặc dù đã làm chủ đƣợc hầu
khắp vùng đồng bằng sông Hồng và chinh phục đƣợc một số dải đất ven biển
nhƣng ngƣời Việt vẫn không thể (và thực tế là không cần) vƣợt ra khỏi không
gian kinh tế nông nghiệp truyền thống để tiến ra biển: “Cái không gian sinh
tồn cụ thể và độc đáo này đã đào luyện nên tính cách hạ bạn, tâm lý hoá thân
vào đồng đất và mở rộng bờ cõi với hướng chảy dọc theo các đồng bằng ven
biển”1.
Tập quán sinh sống định cƣ gắn chặt với đồng đất và nguồn cung cấp
thực phẩm đa dạng, lƣợng thuỷ sản nƣớc ngọt khá phong phú của một không
gian địa - kinh tế ẩm, trũng miền chân núi là nguyên nhân chính yếu kiềm toả
sức vƣơn ra biển, nhu cầu muốn chinh phục biển khơi của ngƣời Việt. Biển là
một thế giới quá mênh mông, mơ hồ và đầy hiểm nguy trong tâm thức của
ngƣời Việt. Ngƣời Việt cũng có truyền thống đóng thuyền đi trên sông nƣớc
nhƣng đó chủ yếu là các thuyền đi trong sông, eo, vịnh… chứ chƣa thực sự là
thuyền đi biển, có thể vƣợt xa đại dƣơng.
Mặt khác, do tác động của tƣ tƣởng trọng nông ức thƣơng, nền thƣơng
nghiệp Việt Nam, trong đó có ngoại thƣơng, luôn đƣợc coi là ngành kinh tế
phụ, không căn bản. Ngay cả những làng, những vùng có truyền thống ngƣ
1 Nguyễn Văn Kim: “Hệ thống buôn bán ở biển Đông thế kỷ XVI- XVII và vị trí của một
số thƣơng cảng Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 1, năm 2002, tr. 45.7
nghiệp, buôn bán trên sông nƣớc vẫn thƣờng có và luôn giữ một khoảnh đất
để canh tác nông nghiệp và thờ cúng tổ tiên. Đặc tính đó thể hiện rõ tƣ duy
hƣớng nội là chủ yếu trong tƣ tƣởng kinh tế và văn hoá truyền thống của
ngƣời Việt.
Trong kho tàng văn hóa dân tộc từ thời dựng nƣớc cũng có rất nhiều
huyền thoại, truyền thuyết gắn liền với tâm thức của các cộng đồng cƣ dân về
biển. Biển là điểm khởi nguồn đồng thời cũng là nơi trở về của nhiều nhân
vật huyền thoại. Huyền thoại Lạc Long Quân – Âu Cơ kết duyên với nhau
sinh ra một trăm ngƣời con để rồi lại phân chia ra, nửa theo Mẹ về Núi, nửa
theo Cha xuống Biển, và những khi ở trên Lục quốc có chuyện, Long Quân
vẫn luôn trở về đất liền để cứu giúp nhân dân. Huyền thoại Lạc Long Quân –
Âu Cơ đã thể hiện mối liên hệ giữa Đất và Nước trong tâm thức của ngƣời
Việt cổ. Trên một bình diện khác, truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh là sự
thể hiện sức mạnh và cuộc đấu tranh không ngừng nghỉ giữa hai thế lực Núi
và Nước. Ngƣời ta hay lấy cuộc hận thù duyên phận giữa hai con ngƣời – hai
vị thần tài giỏi để luận giải về truyền thống khai phá, giành giật đất đai, xây
dựng hệ thống thủy nông. “Huyền thoại đó còn là ký ức về một cuộc đại
chuyển cư, mở mang châu thổ do tác động của quá trình biển tiến, biển lùi
trong lịch sử xa xưa của người Việt”2. Với tập quán canh tác lúa nƣớc thì
hiện tƣợng nƣớc dâng lên rồi rút đi là một trong những điều kiện không thể
thiếu đƣợc cho sự phát triển trù phú, mùa màng bội thu. Chính vì vậy, từ xa
xƣa, ngƣời Việt vừa có tâm lý sợ nƣớc (nhất thủy, nhì hỏa) vừa cầu nƣớc và
mong nƣớc về. “Nước là một bộ phận hợp thành của truyền thống văn hóa,
khắc đậm trong tư duy, trong quá trình đấu tranh dựng nước, giữ nước và cả
2 Nguyễn Văn Kim: “Từ huyền thoại về biển đến cơ tầng văn hóa biển; nhận thức về biển,
đảo trong nghiên cứu lịch sử, văn hóa dân tộc”, trích trong cuốn Người Việt với biển,
Nguyễn Văn Kim chủ biên, Nxb. Thế giới, HN, 2011, tr. 40.8
trong thế giới huyền thoại của người Việt cổ”3. Tƣ duy về biển của ngƣời
Việt cổ không chỉ đƣợc thể hiện qua các huyền thoại và truyền thuyết từ xa
xƣa mà còn đƣợc thể hiện qua các di chỉ khảo cổ học của các nền văn hóa
nhƣ Văn hóa biển Hạ Long thời kỳ hậu đá mới, Văn hóa Đông Sơn, Văn hóa
Sa Huỳnh của thời đại kim khí hay cả Thể chế biển Phù Nam và Chămpa sau
đó.
Mặc dù đã có những bằng chứng cho thấy sự tồn tại về một tƣ duy biển
của ngƣời Việt cổ trƣớc thế kỷ X nhƣng nó dƣờng nhƣ cũng chƣa mấy rõ
ràng. Mai An Tiêm bị đày ra đảo hoang đã trồng dƣa hấu để trao đổi với
những tàu buôn đi qua đó lấy các vật dụng và thực phẩm, nhƣng cuối cùng
cũng quay trở lại đất liền. Khi nỏ thần mất tác dụng và bị quân địch đánh cho
thua trận, An Dƣơng Vƣơng đã bỏ chạy ra đến bờ biển rồi rút gƣơm tự vẫn.
Nghề đánh bắt cá hay cƣ dân sống trên sông nƣớc đƣợc phản ánh trong
chuyện cổ tích với những nhân vật nhƣ Trƣơng Chi, Chử Đồng Tử, v.v..;
luôn có vị thế xã hội thấp kém hơn ngƣời và nghề khác. Mối tình của chàng
đánh cá Trƣơng Chi với cô gái con nhà quyền quý kết thúc trong bi thảm.
Còn Chử Đồng Tử, chàng trai cùng kiệt đến nỗi thân không một mảnh khố, chỉ
có thể đổi đời bằng việc kết hôn với công chúa con vua. Truyền thuyết Dã
Tràng thì phản ánh sự bất lực của con ngƣời trƣớc biển:
“Dã tràng xe cát biển Đông
Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì”
Tuy nhiên, chính những tƣ duy sơ khai, ban đầu ấy đã tạo nền tảng cho
ngƣời Việt có một tƣ duy đầy đủ hơn về biển trong những thế kỷ sau đó.
1.1.2. Tư duy biển của người Việt từ thế kỷ X đến thế kỷ XV
Từ thế kỷ X trở đi, sau chiến thắng trên sông Bạch Đằng năm 938 của
Ngô Quyền, Việt Nam bƣớc vào kỷ nguyên độc lập tự chủ. Ý thức sâu sắc về
3 Nguyễn Văn Kim: “Từ huyền thoại về biển đến cơ tầng văn hóa biển; nhận thức về biển,
đảo trong nghiên cứu lịch sử, văn hóa dân tộc”, Sđd, tr. 40.9
chủ quyền đất nƣớc, các vƣơng triều phong kiến đã có sự quan tâm nhất định
tới vấn đề biển đảo. Các vƣơng triều phong kiến đầu tiên Ngô – Đinh – Tiền
Lê đã chú trọng đến việc xây dựng các căn cứ, chốt thủy quân ở vùng Đông
Bắc mà trọng tâm là cửa sông Bạch Đằng. Triều Lý (thế kỷ XI-XIII) đã chú ý
đến việc buôn bán với nƣớc ngoài bằng đƣờng biển (Trung Quốc và một số
nƣớc Đông Nam Á). Công việc quan trọng đầu tiên của vua Lý Anh Tông
(1139 - 1175) (và cũng có thể đƣợc coi là của cả Vƣơng triều Lý) đối với các
vùng biển đảo là đặt ra hành dinh ở trại Yên Hƣng (Quảng Ninh) vào tháng
10 - 1147 nhƣ là một cơ quan quản lý của triều đình trung ƣơng đối với cửa
ngõ yết hầu sông nƣớc quan trọng nhất của đất nƣớc, cũng nhƣ toàn bộ các
vùng biển đảo của quốc gia Đại Việt nói chung. Sau đó, tháng 2 – 1149, nhân
việc thuyền buôn 3 nƣớc Trảo Oa (Java, Indonesia), Lộ Lạc và Xiêm La (đều
thuộc Thái Lan ngày nay) vào Hải Đông xin cƣ trú buôn bán, vua Lý Anh
Tông “bèn cho lập trang ở nơi hải đảo, gọi là Vân Đồn để mua bán hàng hóa
quý, dâng tiến sản vật địa phương”4. “Vượt ra khỏi ý nghĩa quốc gia về chiến
lược phát triển kinh tế, trên phương diện hải thương khu vực và quốc tế, việc
nhà Lý lập trang Vân Đồn có ý nghĩa hết sức quan trọng, đánh dấu sự dự
nhập của quốc gia Đại Việt vào hệ thống hải thương khu vực và quốc tế qua
khu vực Biển Đông”5. Ở khu vực phía nam, các trung tâm trao đổi ở vùng
Nghệ – Tĩnh cũng có điều kiện phát triển, thu hút một lƣợng lớn thƣơng nhân
từ Trung Quốc và Đông Nam Á đến buôn bán.
Không chỉ chú ý đến việc mở mang thƣơng nghiệp, năm 1171, đích
thân nhà vua đã “đi tuần các hải đảo, xem khắp hình thế núi sông, muốn biết
dân tình đau khổ và đường đi xa gần thế nào”6. Tháng 2 – 1172, nhà vua “lại
đi tuần các hải đảo ở địa giới các phiên bang Nam Bắc, vẽ bản đồ ghi chép
4 Đại Việt sử kí toàn thư, Tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, tr. 317.
5 Hoàng Anh Tuấn: “Vị trí của Việt Nam trong hệ thống thƣơng mại biển Đông thời cổ
trung đại”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 9-10/2008, tr. 6.
6 Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 1, Sđd, tr. 325.10
phong vật”7. Đồng thời, vua Lý Anh Tông liên tục cho đóng nhiều thuyền lớn
tham gia vào việc kiểm tra, kiểm soát, khai thác và bảo vệ các vùng sông
nƣớc, biển đảo nhƣ các thuyền hiệu Vĩnh Long, Thanh Lan, Trƣờng Quyết,
Phụng Tiên, Nhật Long, Ngoạn Thủy… Có thể khẳng định, trong triều Lý và
nhiều vƣơng triều phong kiến khác ở nƣớc ta, hiếm có vị vua nào lại có ý
thức sâu sắc về chủ quyền biển đảo và quan tâm đến việc phát triển thƣơng
mại biển nhƣ vua Lý Anh Tông.
Kế tục sự nghiệp của nhà Lý, Đại Việt từ cuối thời Trần và đầu thời
Lê, vai trò của thƣơng cảng Vân Đồn và vùng cảng biển Đông Bắc trong hệ
thống hải thƣơng khu vực và quốc tế ở Biển Đông đƣợc biết đến nhiều qua
chức năng trung chuyển và xuất khẩu gốm sứ từ Trung Quốc ra thị trƣờng
khu vực, đồng thời đƣa gốm sứ Đại Việt (men nâu thời Trần và men lam thời
Lê Sơ) ra thị trƣờng quốc tế. Tuy nhiên, từ giữa thế kỷ XV, vua Hồng Đức
(1460-1497), đã có những chính sách thiếu tính tích cực đối với vấn đề ngoại
thƣơng và khu vực hải cảng Vân Đồn cũng nhƣ toàn bộ vùng Đông Bắc.
Điều này đã tác động tiêu cực đến sự phát triển của Vân Đồn nói riêng và
toàn khu vực hải cảng Đông Bắc nói chung trong thời kỳ nhà Lê trị vì. Cho
đến cuối thế kỷ XV, hải cảng Vân Đồn dƣờng nhƣ đã suy tàn và không còn là
điểm đến của các thƣơng nhân nƣớc ngoài.
Bên cạnh việc quan tâm đến ngoại thƣơng thì các vƣơng triều phong
kiến Lý, Trần và Lê cũng đã chú ý đến việc xây dựng và phát triển lực lƣợng
thủy quân để bảo vệ nƣớc nhà trƣớc sự xâm lƣợc của phƣơng Bắc. Trong và
sau ba cuộc kháng chiến chống quân xâm lƣợc Mông – Nguyên thế kỷ XIII,
nhà Trần luôn ý thức sâu sắc về vai trò và vị thế của biển, đảo trong việc bảo
vệ chủ quyền, an ninh đất nƣớc. Nhà Trần ba lần chống quân Mông Nguyên
đều có sự tham gia của lực lƣợng thủy quân. Chiến thắng Vân Đồn và chiến
thắng Bạch Đằng năm 1288 cũng nhƣ các cuộc rút lui chiến lƣợc của quân
7 Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 1, Sđd, tr. 326.11
dân Đại Việt về vùng duyên hải Đông Bắc đã cho thấy nghệ thuật quân sự
của quý tộc nhà Trần nhằm phát huy tối đa lợi thế của điều kiện tự nhiên để
chế ngự và chiến thắng kẻ thù.
Nhìn chung, các triều đình phong kiến Việt Nam từ thế kỷ X đến thế
kỷ XV hầu nhƣ chƣa thể hiện một tƣ duy toàn diện về biển. Ngƣời Việt chỉ
khai thác biển nhƣ một nguồn tài nguyên tự nhiên, và những chính quyền
phong kiến chỉ quan tâm tới việc phòng thủ biển để bảo vệ đất liền, chứ chƣa
kết hợp đƣợc phát triển kinh tế biển với phát triển ngoại thƣơng và củng cố
quốc phòng.
1.1.3. Tư duy biển của người Việt từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX
Từ thế kỷ XVI trở đi, do sự tranh giành quyền lực giữa các tập đoàn
phong kiến, Đại Việt bị tách thành hai tiểu quốc là Đàng Ngoài và Đàng
Trong. Một bộ phận cƣ dân ở Đàng Trong phải từng bƣớc di cƣ xuống phía
Nam men theo bờ biển. Chính sách khai phá các vùng đất hoang vu, quan
tâm đến nông nghiệp, mở rộng thủ công nghiệp và phát triển ngoại thƣơng
của các chúa Nguyễn đã tạo điều kiện cho kinh tế Đàng Trong phát triển.
Nhiều đô thị ven biển và các hải cảng nổi tiếng nhƣ Hội An, Thanh Hà, Gia
Định đƣợc hình thành và phồn thịnh. Quan hệ buôn bán giữa Đàng Trong với
các nƣớc Đông Bắc Á, Đông Nam Á và một số nƣớc phƣơng Tây đƣợc thiết
lập và phát triển. Trong tác phẩm “Tư Dung Vãn” của Đào Duy Từ đã nói tới
những cánh buồm của thƣơng nhân trên vùng biển miền Trung: “Buồm ai
dàng dạng chân trời”8.
Đƣợc biết đến là thƣơng cảng lớn nhất của Đàng Trong, lại nằm ở vị trí
giao thƣơng quốc tế thuận lợi, Hội An nhanh chóng trở thành cửa ngõ giao
thƣơng và đối ngoại quan trọng nhất với thế giới bên ngoài. Thƣơng cảng này
đã đóng góp cho ngân sách chính quyền một lƣợng thuế lớn, giúp chúa
KẾT LUẬN
Trải qua nhiều thế kỷ, ngƣời Việt đã hình thành những tƣ duy bƣớc
đầu về biển nhƣng do những hạn chế của lịch sử ngƣời Việt vẫn chƣa có
đƣợc một cái nhìn toàn diện về biển. Các vƣơng triều phong kiến quan tâm
đến biển chủ yếu vẫn là để bảo vệ đất liền chứ chƣa thực sự có tƣ tƣởng
hƣớng ra biển. Ngƣời Việt dù đã có xu hƣớng tiến ra biển, nhƣng chỉ dừng lại
ở giới hạn nhất định. Biển không phải là đối tƣợng của những nỗ lực khám
phá và chinh phục để phát triển. Khát vọng về biển không phải là vƣợt đại
dƣơng, tìm ra những bờ biển mới. Phải đến cuối thế kỷ XIX, với những điều
kiện lịch sử đặc biệt, những tƣ duy mang tính đột phá về hƣớng biển mới
hình thành ở những nhà cải cách nhƣ Nguyễn Trƣờng Tộ, Phạm Phú Thứ,
Bùi Viện, Nguyễn Lộ Trạch, Đặng Huy Trứ, Phan Thanh Giản v.v..
Hệ thống tƣ duy hƣớng biển của các nhà cải cách cuối thế kỷ XIX đã
vƣợt ra khỏi những hạn chế và bất cập của chế độ phong kiến đƣơng thời. Tƣ
duy hƣớng biển phản ánh tƣ tƣởng cấp tiến của một bộ phận quan lại trí thức
Việt Nam trong triều Nguyễn. Mặc dù những tƣ tƣởng cải cách đó không
đƣợc triều Nguyễn thi hành đầy đủ, nhƣng đã phản ánh đƣợc trí tuệ và tầm
vóc của một bộ phận trí thức Việt Nam trƣớc vận mệnh sống còn của dân tộc.
Họ muốn chuyển biến những thách thức và nguy cơ thành cơ hội và vận hội
cho dân tộc phát triển.
Những tƣ duy hƣớng biển của các nhà cải cách là sự phát triển tiếp nối,
đồng thời mở rộng hơn, cao hơn và toàn diện hơn so với tƣ duy về biển của
ngƣời Việt trƣớc đây. Hệ thống tƣ duy hƣớng biển đó thể hiện trên nhiều lĩnh
vực: quân sự, ngoại thƣơng, kinh tế và giáo dục. Nó biểu hiện tầm nhìn chiến
lƣợc của các nhà cải cách là muốn phát triển, muốn tránh đƣợc hoạ xâm lăng
thì đất nƣớc ta phải hƣớng ra biển cũng đồng nghĩa với việc hƣớng ra bên
ngoài, giao lƣu với các nƣớc bên ngoài. Trong thời hoàn cảnh xã hội nƣớc ta98
khi đó, thì tƣ duy hƣớng ra bên ngoài của các nhà cải cách lại càng quý và
đáng trân trọng hơn bao giờ hết.
Một trong những điểm đáng đƣợc trân trọng nhất trong hệ thống tƣ
duy hƣớng biển là tƣ duy về quân sự biển của các nhà cải cách. Họ nhìn thấy
đƣợc lợi thế khi lấy chiến trƣờng là biển, vũ khí là tàu đồng và đại bác. Xem
cách Bùi Viện lập nên đội thuỷ quân hùng mạnh trên biển ta nhƣ thấy đƣợc
tâm huyết và cái nhìn của ông khi lấy chiến trƣờng là biển: “Đội hải quân
này sẽ đi tuần khắp miền duyên hải của nước ta. Đồng thời họ phải làm cả ba
việc: vận tải tiền lương của nhà nước, hộ vệ các nhà buôn và trừ diệt những
giặc bể hiện đương hoành hành ở Đông hải... Sau chúng ta dần dần luyện tập
cho thủy thủ các quân thuyền về mặt thủy chiến để sau này có một đội hải
quân hùng tráng, sẽ có ngày dùng đến…”155.
Tƣ duy kinh tế biển của các nhà cải cách đã thoát ra khỏi cái nhìn hạn
hẹp của ông cha ta từ trƣớc đến nay về biển. Ông cha ta xƣa kia, nhìn ra biển
khơi cũng chỉ mong đƣợc tôm cá đầy thuyền, chứ chƣa có tƣ duy đầy đủ về
việc qua biển mà giao thƣơng với nƣớc ngoài để phát triển kinh tế kết hợp
với củng cố quốc phòng. Tất cả những ý tƣởng nhƣ mở rộng quan hệ buôn
bán quốc tế của Nguyễn Trƣờng Tộ, thành lập Chiêu thƣơng cục của Bùi
Viện, lập các thƣơng điếm ven biển của Đặng Huy Trứ và mở trƣờng hải học
của Phạm Phú Thứ đã chứng tỏ họ đã ý thức đƣợc vị thế của biển đối với sự
tồn tại và phát triển của đất nƣớc.
Nhƣng những tƣ duy hƣớng biển đó đã không đƣợc triều Nguyễn quan
tâm đúng mức. Cuộc cải cách chỉ tồn tại chƣa đầy 20 năm kể từ khi thực dân
Pháp nổ súng xâm lƣợc cho đến những ngày độc lập cuối cùng của triều
Nguyễn. Ý tƣởng của những nhà cải cách là vô cùng tiến bộ và thiết thực
nhƣng nhìn chung vẫn không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Các ông
155 Thế Văn, Quang Khải: Bùi Viện với sự nghiệp canh tấn đất nước cuối thế kỷ XIX, Sđd, tr.
63.99
phần lớn mới chỉ chú trọng đến việc phòng thủ ven biển, đề xuất xây dựng
một đội thủy quân mạnh nhƣng lại chƣa đƣa ra đƣợc biện pháp thiết thực
trong tình hình lúc đó. Phạm Phú Thứ đề nghị lập Hải học đƣờng nhƣng mới
chỉ dừng lại ở bản kế hoạch chứ chƣa đi vào thực tế nên không đem lại đƣợc
kết quả thực tiễn.
Những tƣ duy của các ông thiếu những hậu thuẫn về mặt xã hội làm cơ
sở vật chất bên trong. Không đƣợc sự ủng hộ của đại bộ phận tầng lớp trong
xã hội nên thất bại là điều khó tránh khỏi. Với vai trò là ngƣời đứng đầu nhà
nƣớc, vua Tự Đức tuy khá quan tâm đến đề nghị canh tân, song lại thiếu tính
quyết đoán và tỏ ra không đủ năng lực để thực hiện. Thêm vào đó, thái độ
bảo thủ và tầm nhìn hạn hẹp của số đông triều thần đã bóp chết nhiều bản
điều trần ngay từ trên giấy.
Thực dân Pháp xâm lƣợc đã cản trở đáng kể đến vấn đề canh tân đất
nƣớc. Triều Nguyễn tiếp nhận các đề nghị cải cách và tiến hành một phần cải
cách trong hoàn cảnh Nam Bộ từng bƣớc bị địch chiếm đóng. Các hiệp ƣớc
lần lƣợt đƣợc ký kết với những điều khoản đầy bất lợi đã trói buộc triều
Nguyễn trong quan hệ một chiều với Pháp.
Tuy những kiến nghị của các nhà cải cách không đƣợc thực hiện hoặc
chỉ đƣợc thực hiện một vài điều nhỏ nhƣng lại có ý nghĩa chính trị và tƣ
tƣởng quan trọng. Một là thể hiện đƣợc sự thay đổi lớn trong nhận thức của
một bộ phận trí thức Nho học Việt Nam, tấn công trực diện vào các hệ tƣ
tuởng phong kiến lỗi thời. Hai là tạo tiền đề cho phong trào cải cách ở Việt
Nam về sau, mà trực tiếp nhất là phong trào Duy Tân ở đầu thế kỷ XX.
Từ những bài học thành công và thất bại của những nhà cải cách Việt
Nam ở nửa cuối thế kỷ XIX sẽ giúp chúng ta rút ra những kinh nghiệm quý
báu cho sự nghiệp đổi mới đất nƣớc trong hiện tại. Đó là Việt Nam muốn
phát triển thì phải tiến hành mở cửa và giao lƣu rộng rãi hơn nữa với các
nƣớc trên thế giới. Việt Nam cần hƣớng mạnh hơn nữa ra biển. Trong100
khi nguồn tài nguyên trên đất liền của chúng ta đang ngày một cạn kiệt, thì
cần khai thác các nguồn tài nguyên trên biển. Biển giữ vị trí sống còn
không chỉ trong phát triển kinh tế và đối ngoại, mà còn là vấn đề bảo vệ an
ninh quốc phòng, đặc biệt là giữ vững chủ quyền biển đảo của đất nƣớc.
Ngày nay thế kỷ XXI đƣợc nhiều ngƣời nhận định là thế kỷ của đại dƣơng.
Lợi thế phát triển sẽ thuộc về các quốc gia có biển. Điều này đã cho thấy tƣ
duy hƣớng biển của các nhà cải cách cuối thế kỷ XIX là vô cùng đúng đắn và
mang tầm thời đại.
Cho tới những năm đầu thế kỷ XXI, Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam đã
rất nhấn mạnh đến những lợi ích chiến lƣợc của biển. Chiến lƣợc biển đến
năm 2020 của Đảng và Nhà nƣớc và mới đây là Đề án “Đẩy mạnh công tác
tuyên truyền về quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững biển và hải đảo Việt
Nam” (tháng 3 năm 2011) đã biểu hiện tƣ duy lớn của những nhà lãnh đạo
đất nƣớc. Trong tƣơng lai với nhận thức mới (vốn đƣợc vun trồng từ quá khứ
và sự bắt nhịp với xu hƣớng thời đại hiện tại), với chiến lƣợc mới, Việt Nam
chắc chắn sẽ tận dụng tốt những tiềm năng và lợi thế của biển trong phát triển
kinh tế, đối ngoại và an ninh quốc phòng, đƣa Việt Nam sớm thành một
cƣờng quốc biển. Tƣ duy xa rừng nhạt biển sẽ không còn nữa, một nền văn
hóa biển sẽ hình thành.

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
T Xây dựng hệ thống câu hỏi định hướng phát triển tư duy của học sinh trong dạy học chương Sóng ánh sá Luận văn Sư phạm 0
N Bồi dưỡng tư duy sáng tạo cho học sinh thông qua việc hướng dẫn giải bài tập chương Dòng điện xoay c Luận văn Sư phạm 0
N Vận dụng khái niệm "Kinh nghiệm và tư duy" trong triết lý giáo dục của John Dewey hướng dẫn học sinh Luận văn Sư phạm 0
B Xây dựng hệ thống bài tập chương "Dòng điện xoay chiều" - Vật lý 12 theo hướng phát triển tư duy học Luận văn Sư phạm 0
H Nghiên cứu Phật giáo, tìm hiểu lịch sử cũng như định hướng cho sự phát triển nhân cách, tư duy con n Tài liệu chưa phân loại 0
N Phân tích tư duy kinh doanh theo định hướng khách hàng và định hướng doanh nghiệp Tài liệu chưa phân loại 2
G Trần Quý Cáp -Nhà tư tưởng theo khuynh hướng duy tân Tài liệu chưa phân loại 0
D bồi dưỡng năng lực tư duy sáng tạo cho học sinh giỏi THPT thông qua dạy học chủ đề chuẩn độ Luận văn Sư phạm 0
D Ứng dụng bản đồ tư duy vào việc dạy từ vựng tiếng việt cho người nước ngoài Ngoại ngữ 0
D Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học địa lý lớp 12 Luận văn Sư phạm 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top