lyquocviet1989

New Member
Download Tiểu luận Sự chênh lệch về thu nhập, chi tiêu ảnh hưởng đến sức khỏe giữa thành thị, nông thôn

Download miễn phí Tiểu luận Sự chênh lệch về thu nhập, chi tiêu ảnh hưởng đến sức khỏe giữa thành thị, nông thôn





 
Mục lục
A.Mở đầu.1
B.Nội dung .2
1. Chênh lệch thu nhập chi tiêu và ảnh hưởng đến sức khỏe .2
a. Thu nhập nông thôn thành thị những ảnh hưởng của nó đến sức khỏe.2
b. Chi tiêu nông thôn thành thị những ảnh hưởng của nó đến sức khỏe .6
c. Y tế sức khỏe và tác động qua lại giữa chúng .13
2. Khái quát mối quan hệ giữa thu nhập chi tiêu và sức khỏe thành thị nông thôn .19
3. Giải pháp .21
C. Kết luận .23
 
 
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.

Tóm tắt nội dung:

ệch khá lớn, thành thị thu nhập trong lĩnh vực nông nghiệp thấp hơn rất nhiều so với nông thôn, năm 2002 là 28,0 nghìn VNĐ trong khi ở nông thôn là 99,0 nghìn VNĐ ( gấp 3,5 lần thành thị). Những năm gần đây, nhờ sự chú trọng của Nhà nước thu nhập trong lĩnh vực nông nghiệp đang có xu hướng thu hẹp. Nếu trước kia, trong lĩnh vực nông nghiệp giữa nông thôn và thành chênh lệch nhau là 3,5 nghìn VNĐ thì bây giờ giảm xuống 3,14 nghìn VNĐ. Mặt khác ở thành thị thu trong lĩnh vực dịch vụ rất cao và tăng lên nhanh từ 66,4 nghìn VNĐ (2002) lên 90,0 nghìn VNĐ và 116 nghìn VNĐ (2006). Theo Tổng cục Thống kê có thể khẳng định nước ta đang có sự chuyển dịch theo hướng sang lĩnh vực công nghiệp dịch vụ. Tuy nhiên, nguồn thu của nông thôn vẫn chủ yếu là từ nông nghiệp, trong khi thu nhập từ nông nghiệp chủ yếu theo mùa vụ, thường xuyên chụi ảnh hưởng từ các cơn bão, lũ lụt hạn hán …nên mức thu của họ là rất thấp so với thành thị. Ví dụ, năm 2002 mức lương thu nhập bình quân một nhân khẩu / tháng là 274,4 nghìn VNĐ, nông thôn chỉ có 98,1 nghìn VNĐ cho tới năm 2006, tỷ lệ chênh lệch này còn khá cao nông thôn là 140,0 nghìn VNĐ, thành thị là 453,8 nghìn VNĐ (gấp 3,24 lần nông thôn).
Tóm lại, do thu nhập bình quân đầu người tăng, nên đời sống các tầng lớp dân cư ở các vùng tiếp tục được cải thiện số hộ cùng kiệt giảm. Tỷ lệ hộ cùng kiệt lương thực thực phẩm cả nước là từ 13,3% (1999) giảm xuống 9,9% năm 2001- 2002 và 6,9% năm 2003- 2004, tỷ lệ cùng kiệt của cả nông thôn và thành thị giảm. Tuy nhiên, vẫn còn mức chênh lệch quá cao về thu nhập giữa nông thôn và thành thị, kéo theo rất nhiều vấn đề khác nhau. Khi nguồn thu nhập thấp, tương ứng với nó là vấn đề chi tiêu cũng không cao. Nguồn lương thấp khiến người dân không thể đầu tư cho các dịch vụ y tế chăm sóc sức khỏe tốt được, thậm chí một số hộ nông dân nông thôn còn tự cắt thuốc cho mình.
b. Chi tiêu giữa nông thôn thành thị những ảnh hưởng của nó đến sức khỏe
Tính chung cả nước chi tiêu theo giá hiện hành năm 2003 – 2004 bình quân đầu người / tháng khoảng 397 nghìn VNĐ, tăng 35% so với năm 2001 – 2002, chi tiêu cho đời sống đạt 360 nghìn VNĐ tăng 33,8 % so với năm 2001- 2002 bình quân mỗi năm tăng cao hơn thời kỳ 1999 – 2002 (+ 10,3%) và thời kỳ 1996 -1999 ( +6,6%). Nếu tính theo giá so sánh, năm 2002 là gốc, chi tiêu thực tế 2003 – 2004 đạt 319 nghìn VNĐ và tăng 10,5% so với 2001 – 2002.
Tổng chi tiêu bình quân một nhân khẩu một tháng
Nhìn chung, cả nước là 293,7 nghìn VNĐ (2002) tăng lên 396,8 nghìn VNĐ (2004), (tăng lên 103,1 nghìn VNĐ), năm 2006 tăng lên tới 511,4 nghìn VNĐ. Vậy chi tiêu bình quân một nhân khẩu trong cả nước tăng lên. Nhưng giữa nông thôn thành thị có sự khác biệt, thành thị là 497,5 nghìn VNĐ (2002) tăng lên 652,0 nghìn VNĐ (2004) và tăng lên 811,8 nghìn VNĐ, trong giai đoạn 2002 – 2004 tăng lên 154,5 nghìn VNĐ, giai đoạn sau tăng nhanh hơn 2004 - 2006 tăng lên 314,3 nghìn VNĐ, còn nông thôn năm 2002 chi tiêu chỉ có 232,1 nghìn VNĐ và tăng lên 401,7 nghìn VNĐ (2006). Qua số liệu thống kê: Nông thôn tăng nhanh hơn thành thị, nhưng so với thành thị thì chi tiêu cho đời sống của nông thôn còn quá thấp, đặc biệt trong thời kì hiện nay – giá cả leo thang mức chi của người dân nông thôn gặp nhiều khó khăn. Như vậy, bữa ăn của họ không thể đảm bảo tốt, đủ lượng calo theo tiêu chuẩn bình quân của một người là trên 2000 calo / ngày. Trong khi thành thị mức tăng không bằng nông thôn nhưng việc chi tiêu của năm 2006 gấp 2 lần nông thôn. Vậy với mức chi tiêu bình quân một nhân khẩu / tháng của thành thị cao hơn nông thôn họ có thể đảm bảo tốt về khẩu phần ăn cũng như đảm bảo tốt về lượng calo trong mỗi bữa ăn, đồng thời đảm bảo tốt các dịch vụ chăm sóc sức khỏe.
Chi tiêu bình quân một nhân khẩu chia theo các khoản
Trong thời kì công nghiệp hóa hiện - đại hóa, mức chi tiêu trong tất cả các mặt cũng như tất cả các dịch vụ chăm sóc sức khỏe của người dân đều tăng lên. Cả nước, tổng chi tiêu năm 2002 là 293,7 nghìn VNĐ tăng lên 396,8 nghìn VNĐ (2004), tăng lên 511,4 nghìn VNĐ (2006). Các chi tiêu đời sống, chi tiêu ăn, uống, hút và các chi tiêu khác cũng tăng lên. Nhưng có sự khác nhau giữa nông thôn thành thị, thành thị năm 2002 tổng chi tiêu là 497,5 nghìn VNĐ tăng lên 652,0 nghìn VNĐ năm 2004 (tăng 154,5 nghìn VNĐ gấp 1,3 lần) và cho đến năm 2006 tăng lên 811,8 nghìn VNĐ (tăng 159,8 nghìn VNĐ). Trong đó, chi tiêu đời sống tăng 460,8 nghìn VNĐ năm 2002 lên 738,3 nghìn VNĐ (trong vòng 2 năm chi tiêu cho đời sống ở thành thị tăng lên 277,5 nghìn VNĐ).
Chi tiêu cho ăn, uống, hút: năm 2003-2004 chi tiêu cho đời sống bình quân đầu người / tháng khu vực nông thôn đạt 284 nghìn VNĐ, tăng 34,3%, khu vực thành thị đạt 595 nghìn VNĐ, tăng 29,2% so với 2001-2002 và gấp 2,1 lần khu vực nông thôn. Mức sống tiếp tục có chuyển biến tích cực thông qua số liệu chi tiêu cho đời sống. Chi cho ăn, uống, hút bình quân một người / tháng đạt 193 nghìn VNĐ tăng lên 26,3% so với 2001 – 2002, khu vực thành thị đạt 291 nghìn VNĐ, khu vực nông thôn đạt 61 nghìn VNĐ. Chi tiêu cho ăn, uống năm 2004 là 237,6 nghìn VNĐ tăng lên 356,1 nghìn VNĐ (tăng 118,5 nghìn VNĐ). Đồng thời, có sự khác nhau trong việc mua sắm đồ dùng, thiết bị giữa nông thôn và thành thị.
Chi tiêu không phải ăn, uống, hút: Năm 2002 là 223,2 nghìn VNĐ tăng lên 382,3 nghìn VNĐ năm 2004 và năm 2006 là 382,3 nghìn VNĐ.
Chi tiêu cho nhà ở, tiện nghi, đồ dùng lâu bền: nhà ở, tỉ lệ hộ có nhà kiên cố là 20,8%, nhà tạm thời và nhà khác là 20,4%. Tỉ lệ nhà kiên cố tăng từ 17,2% năm 2001 -2002 lên 20,8% năm 2003 -2004, tỉ lệ hộ có nhà tạm thời và nhà khác giảm nhanh từ 26% năm 1997 – 1998 xuống còn 24,5% năm 2001 -2002 và 20,4% năm 2003 – 2004. Nguyên nhân giảm xuống là do địa phương đã hoàn thành nhà tình nghĩa giúp hộ cùng kiệt ở nông thôn. Diện tích nhà ở được cải thiện ở cả nông thôn và thành thị, bình quân một người là 12,5 m2 năm 2001 - 2002 tăng lên 13,2 m2 năm 2002 -2004, trong đó khu vực thành thị tăng lên 14,7 m2 tăng lên 15,8 m2 các hộ có xu hướng mua sắm đồ dùng lâu bền ngày càng nhiều. Tỉ lệ hộ có mua sắm đồ dùng lâu bền từ 32,8% năm 1991 – 2002 đã tăng lên 43,3% năm 2003 - 2004, tỉ lệ hộ có đồ dùng lâu bền chiếm 96,9% năm 2001 -2002 tăng lên 98,5% năm 2003 – 2004. Tỉ lệ hộ có đồ dùng lâu bền của khu vực nông thôn thành thị đều tăng. Trị giá đồ dùng lâu bền bình quân một hộ đạt 9,1 triệu đồng năm 2001 – 2002 tăng lên 11,9 triệu đồng năm 2003 - 2004, trong đó hộ thành thị đạt 22,5 triệu đồng, hộ nông thôn đạt 8,2 triệu đồng.
Tỉ lệ hộ có ti vi màu đạt 52,7% năm 2001 – 2002 tăng lên 67,8% năm 2003 – 2004, tỉ lệ hộ có đầu video từ 22,5% tăng lên 32,4%, tỉ lệ hộ có xe máy từ 32,3% tăng lên 44,3%, tỉ lệ có máy điện thoại từ 10,7% tăng lên 27,3%, tỉ lệ hộ có tủ lạnh, tủ đá từ 10,9% tăng lên 16,4% tương ứng với các năm trên. Sử dụng hợp vệ sinh và vệ sinh môi trường có tiến bộ đáng kể. Tỷ lệ hộ dùng nước hợp vệ sinh làm nguồn nước chính tăng từ 78,1% năm 2001 – 2002 lên 80,7% năm 2003 – 2004, trong đó tỉ lệ hộ dùng nước máy tăng từ 17,6% lên 19,1%. Tỉ lệ hộ dùng nước giếng, nước ao hồ, nước sông giảm từ 18,6% năm 2001 -2002 xuống 15,8% năm ...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top