Download miễn phí Tiểu luận Phân tích tình hình tài chính của Công ty cổ phần Nhựa Bình Minh và Công ty cổ phần nhựa Thiếu Niên Tiền Phong





Công ty cổ phần nhựa Thiếu Niên Tiền Phong tiền thân là công ty nhựa Thiếu Niên Tiền Phong được thành lập năm 1993. Công ty được cổ phần hóa theo quyết định số 2979/ QĐ-TCCB ngày 10 tháng 11 năm 2003 cuả Bộ Công nghiệp. Nhựa Thiếu Niên Tiền Phong là một thương hiệu lớn trong ngành sản xuất ống nhựa, một trong những công ty chiếm thị phần lớn nhất trong cả nước. Thương hiệu Nhựa Thiếu Niên Tiền Phong đã và đang khẳng định chỗ đứng vững chắc trên thị trường, được người tiêu dùng đánh giá cao về chất lượng, giá cả, mẫu mã
Hiện nay, công ty được niêm yết trên trung tâm giao dịch giao dịch chứng khoán Hà Nội.
Sau đây là những phân tích tài chính cơ bản của công ty
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

nhựa kỹ thuật khác.
Các sản phẩm nhựa được sản xuất theo tiêu chuẩn ISO 4427: 1996, TCVN 7305: 2003, BS 3505: 1968, … trên các dây chuyền thiết bị hiện đại của các hãng nổi tiếng như KrausMaffei, Cincinnati, Corma…
Với hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001: 2000 và đội ngũ cán bộ nhân viên lành nghề, có trình độ, có tâm huyết đang là ưu thế cạnh tranh đáng kể của Nhựa Bình Minh trên thương trường. Nhựa Bình Minh đã đạt được sự tín nhiệm cao của khách hàng trong và ngoài nước. Nhựa Bình Minh đã đạt nhiều giải thưởng trong nước, quốc tế và giải thưởng “Sao Vàng Đất Viêt” dành cho thương hiệu “Nhựa Bình Minh”. Sản phẩm Nhựa Bình Minh liên tục được bình chọn Hàng Việt Nam chất lượng cao từ năm 1996 đến nay.
Trụ sở chính của công ty đặt tại 240 đường Hậu Giang, phường 9, Quận 6, Tp. HCM. Công ty có hai nhà máy trực thuộc là:
Nhà máy 1: 240 Hậu Giang- Phường 9- Quận 6- Tp. HCM
Nhà máy 2: Số 7 đường số 2, Khu công nghiệp Sóng Thần 1- Dĩ An- Bình Dương.
2. Phân tích tài chính
Dựa vào các báo cáo tài chính của Công ty Cổ phần Nhựa Bình Minh trong 3 năm từ năm 2005 đến năm 2007 đã thu thập được, phân tích tình hình tài chính của Công ty Cổ phần Nhựa Bình Minh được tiến hành theo 4 nhóm tỷ số như sau:
Nhóm tỷ số về khả năng thanh toán
Nhóm tỷ số về khả năng cân đối vốn
Nhóm tỷ số về khả năng hoạt động
Nhóm tỷ số về khả năng sinh lãi
a, Tình hình thanh khoản
CHỈ TIÊU
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Ngành
1. Tỷ số thanh toán hiện hành
2.57
8.37
5.25
2.1
2. Tỷ số thanh toán nhanh
1.14
5.34
3.38
1.3
3. Vốn lưu động ròng
113,126
300,422
301,846
4. Tỷ số dự trữ trên vốn lưu động ròng
0.91
0.41
0.44
Vốn lưu động ròng của Công ty Cổ phần Nhựa Bình Minh tăng liên tục qua các năm, tính đến cuối năm 2007 mức vốn lưu động ròng là 301846 triệu đồng, tăng 1424 triệu so với năm 2006 và 188720 triệu so với năm 2005. Nguyên nhân tăng là do tài sản lưu động của công ty tăng nhiều và liên tục qua các năm (mức tăng so với năm 2005 là 101,4%) trong khi nợ ngắn hạn lại giảm (giảm 1,4% so với năm 2005). Tài sản lưu động tăng hơn so với năm 2005 là do các khoản phải thu tăng mạnh (tăng 148655 triệu đồng, với mức tăng 250%). Khoản nợ ngắn hạn giảm là do các khoản phải trả, phải nộp khác; vay ngắn hạn, người mua trả tiền trước giảm; trong khi các khoản nợ ngắn hạn khác tăng không nhiều. Vốn lưu động ròng gia tăng cho thấy mức độ an toàn tài chính của công ty sẽ tăng, vì sự gia tăng của tài sản lưu động được nguồn vốn thường xuyên tài trợ.
Với mức tăng đáng kể của vốn lưu động, việc sử dụng vốn lưu động để kinh doanh của công ty đang trở nên tốt hơn.
Khả năng thanh toán hiện hành của công ty đang ở mức quá cao so với mức trung bình ngành. Năm 2005, khả năng thanh toán của công ty chỉ xấp xỉ mức trung bình của ngành, tuy nhiên khả năng này lại quá cao trong năm 2006 và 2007 cụ thể năm 2006 là 8.37 (gấp 4 lần mức trung bình ngành), năm 2007 là 5.25 (gấp 2.5 lần mức trung bình ngành). Nguyên nhân là do công ty đang dùng quá mức vốn chủ sở hữu của mình để tài trợ cho tài sản lưu động, điều này không phải là hợp lý và hiệu quả trong việc sử dụng vốn dài hạn. Cụ thể, năm 2006 công ty đã giảm mức nợ ngắn hạn (giảm 43,4% so với năm 2005) và tăng vốn chủ sở hữu (tăng 110,3% so với năm 2005) để tài trợ cho tài sản lưu động (tiền tăng 525%, các khoản phải thu tăng 72.6% so với năm 2005). Tình hình này đã được cải thiện hơn vào năm 2007, khả năng thanh toán đã giảm xuống mức thấp hơn do công ty gia tăng các khoản phải trả người bán (tăng 185% so với năm 2006) để tài trợ cho tài sản lưu động, đây là biểu hiện tốt tuy nhiên so với mức trung bình ngành thì khả năng thanh toán của công ty vẫn đang ở mức cao. Điều này đòi hỏi công ty cần có chính sách tài trợ hợp lý hơn.
Khả năng thanh toán nhanh của công ty trong năm 2005 thấp hơn so với mức trung bình ngành. Những thay đổi trong chính sách tín dụng và cơ cấu tài trợ đã làm tăng khả năng thanh toán của doanh nghiệp trong các năm sau đó, cụ thể là tăng vốn chủ sở hữu để tài trợ cho các khoản phải thu của khách hàng. Tuy nhiên, mức tài trợ của vốn chủ sở hữu cho vốn lưu động dường như quá lớn làm cho khả năng thanh toán nhanh của công ty cao hơn nhiều so với mức trung bình ngành. Đây là vấn đề mà công ty cần xem xét lại trong chính sách tín dụng và cơ cấu tài trợ để đảm bảo duy trì khả năng thanh toán ở mức hợp lý.
b, Tình hình hoạt động
CHỈ TIÊU
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Ngành
1. Vòng quay hàng tồn kho
3.16
3.04
4.05
5.6
2. Kỳ thu tiền bình quân
50.66
73.46
110.20
3. Vòng quay phải thu
8.19
8.88
7.65
22.7
4. Vòng quay tiền
25.84
4.92
84.57
5. Vòng quay TSCĐ
6.67
11.24
8.48
6. Vòng quay tổng tài sản
1.57
1.20
1.38
0.9
Vòng quay tồn kho của Công ty Cổ phần Nhựa Bình Minh đang ở mức thấp hơn nhiều so với mức trung bình của ngành, vòng quay tồn kho của công ty qua các năm khoảng 3.3 vòng, trong khi mức trung bình ngành là 5.6 vòng. Điều này cho thấy khách hàng ít chấp nhận sản phẩm của công ty hay các chính sách kiểm soát sản xuất và hàng tồn kho của công ty không còn hiệu quả. Tuy nhiên, vòng quay tồn kho có xu hướng được cải thiện qua các năm từ 2005 đến 2007. Tình hình đựoc cải thiện là do công ty đang đẩy mạnh chính sách mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, biểu hiện cụ thể là chi phí bán hàng tăng cao (chi phí bán hàng năm 2007 đã tăng 69.8% so với năm 2006 và 172.4% so với năm 2005), các khoản phải thu của khách hàng cũng tăng mạnh do công ty gia hạn tín dụng thêm cho khách hàng để đẩy mạnh việc tiêu thụ (các khoản phải thu năm 2007 tăng 103% so với năm 2006, và tăng 250% so với năm 2005).
Kỳ thu tiền bình quân của công ty gia tăng liên tục và biến động mạnh qua các năm, kỳ thu tiền bình quân năm 2007 lên tới 110 ngày. Nguyên nhân là do các khoản phải thu của công ty, đặc biệt là các khoản phải thu khách hàng tăng mạnh. Điều này cho thấy quy mô các khoản tín dụng đã quá hạn có xu hướng tăng lên trong thời gian tới và chính sách thu tiền của công ty đã giảm hiệu quả. Công ty cần chú ý nhiều hơn đến chính sách thu hồi các khoản mua chịu của khách hàng để giảm kỳ thu tiền bình quân, không gây ứ đọng vốn trong quá trình thanh toán.
Cũng tương tự như kỳ thu tiền bình quân, vòng quay phải thu của công ty thấp hơn nhiều so với mức trung bình ngành, thậm chí có xu hướng giảm qua các năm từ 2005 đến 2007. Đây là dấu hiệu không tốt đối với khâu thanh toán của công ty.
Vòng quay tài sản cố định của công ty tăng qua các năm, cụ thể vòng quay tài sản cố định năm 2006 là 11.24 vòng, tăng 68.5% so với năm 2005. Đây là dấu hiệu tốt chứng tỏ công ty đã khai thác có hiệu quả các tài sản cố định đã đầu tư trước đó. Tuy tỷ số này có giảm vào năm 2007, chỉ đạt 8.48 vòng, giảm 24.5% so với năm 2006 nhưng đây là điều hợp lý bởi vì vào năm 2007 công ty đã đầu tư vào tài sản cố định 35434 triệu đồng (tăng 79% so với năm 2006) khiến giá trị tài sản cố định tăng mạnh làm giảm tỷ số này.
Vòng quay tổng tài sản của công ty gia tăng qua các năm và cao hơn so với mức trung bình ngành. Điều này thể hiện công ty
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top