boo_xig

New Member
Download Tiểu luận Nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ thừa kế theo qui định của pháp luật hiện hành

Download miễn phí Tiểu luận Nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ thừa kế theo qui định của pháp luật hiện hành





MỤC LỤC
 
A. ĐẶT VẤN ĐÊ . 1
B. GIẢI QUYẾT VẤ ĐỀ . 2
I - Cơ sở lý luận . 2
II - Thừa kế theo qui định pháp luật ở Việt Nam . 4
1)Qui định chung . 4
2)Thừa kế theo di chúc . 6
3)Thừa kế theo pháp luật . 7
III-Diện và hàng thừa kế . .
1)Diện và hàng thừa kế theo qui đinh của pháp luật Việt Nam . 9
9
a)Diện thừa kế .
b)Hàng thừa kế
2)Diện và hàng thừa kế theo qui đinh của pháp luật một số nước trên thế giới .
a)Nhật Bản .
b)Cộng hoà Pháp .
c)Nga
3)Nhận xét 9
C)KÊT THÚC VẤN ĐỀ 17
 
 
 
 
 
 
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

Dân sự năm 2005 quy định: Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Do đó, nếu cá nhân lập di chúc thì di chúc chỉ có hiện lực khi người lập di chúc qua đời. khi lập di chúc, quyền sở hữu tài sản vẫn thuộc về người lập di chúc, người hưởng thừa kế chỉ có quyền đối với tài sản do người lập di chúc để lại là sau khi ngưòi lập di chúc chết.
Về thời hiệu khởi kiện về thừa kế, Điều 645 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hay bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
II-Thừa kế theo qui định pháp luật ở Việt Nam:
1)Qui định chung:
Quyền thừa kế của cá nhân (theo điều 631 BLDS 2005) : "Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hay theo pháp luật."
Như vậy thừa kế theo quan hệ pháp luật dân sự chính là sự chuyển dịch tài sản và quyền sở hữu tài sản của cá nhân người đã chết cho cá nhân, tổ chức, có quyền hưởng thừa kế; người thừa kế trở thành chủ sở hữu của tài sản theo di chúc hay theo pháp luật (riêng đối với đất đai là thừa kế quyền sử dụng). Sự chuyển dịch di sản của người chết sang người sống sẽ được thực hiện theo hai căn cứ: Nếu căn cứ theo ý chí,nguyện vọng của người chết thì được gọi là thừa kế theo di chúc; Nếu căn cứ theo các qui định của pháp luật thì được coi là thừa kế theo pháp luật.
Các nguyên tắc cơ bản của thừa kế:
- Nguyên tắc tôn trọng ý chí của người có quyền thừa kế:
Pháp luật thừa kế luôn tôn trọng ý chí của những người tham gia trong quan hệ thừa kế.Nếu như người để lại di sản mà có để lại di chúc thì việc phân chia di sản theo di chúc bao giờ cũng được ưu tiên giải quyết trước, phần tài sản chia cho những người thừa kế cũng tùy thuộc vào di chúc mà người chết để lại. Đó chính là sự tôn trọng ý trí của người để lại di sản.Và ngược lại, những người thừa kế có quyền đồng ý nhận toàn bộ di sản được thừa hưởng hay chỉ nhận một phần hay khước từ việc thừa hưởng di sản từ người chết đó là sự tôn trọng ý chí của người thừa kế.
- Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân về quyền thừa kế:
Theo điều 632 BLDS-2005: " Mọi cá nhân đều có quyền bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hay theo pháp luật ". Theo điều luật này thì mọi cá nhân đều có quyền để lại tài sản của mình cho người khác và mọi cá nhân đều có quyền bình đẳng trong việc thừa hưởng tài sản theo di chúc tức là bất kì cá nhân nào dũng được phép nhận tài sản theo ý chí của người chết.Còn sự bình đẳng trong việc hưởng di sản là tất cá những người thừa kế theo qui định của pháp luật đều có quyền hưởng phần tài sản bằng nhau.
- Nguyên tắc cá nhân người thừa kế phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế:
Điều 635-BLDS 2005 đã qui định " Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế..." Với đặc trưng cơ bản của sự thừa kế là sự tiếp nối về sở hữu tài sản giữa người sống với người chết nên người thừa hưởng di sản đương nhiên phải là người còn sống.Việc dịch chuyển di sản từ người chết này sang người chết khác là không thực hiện được.Tiếp đó là việc người còn sống đó phải còn sống ở thời điểm mở thừa kế.Có thể người thừa kế đã chết nhưng khi mở thừa kế thì ông ta còn sống hay đã chết hay mất tích nhưng chưa bị tuyên bố là đã chết hay ngày tuyên bố nguời đó chết là sau ngày mở thừa kế, khi đó ông ta việc chuyển giao di sản cho ông ta vẫn được thực hiện và nó sẽ được tính vào tài sản của người đó.
Trong trường hợp người thừa kế bị tuyên bố là đã mất tích hay chết nhưng sau đó người đó còn sống trở về thì người đó vẫn được coi là còn sống và được quyền hưởng di sản sau khi tòa án hủy bỏ tuyên bố mất tích hay đã chết.
- Người thừa kế có quyền và nghĩa vụ tài sản do người chết để lại:
Quyền luôn luôn đi kèm với nghĩa vụ. Do đó những người thừa kế có quyền thừa hưởng di sản để lại từ người chết theo di chúc hay theo pháp luật, phần di sản họ được hưởng có thể bằng nhau hay không bằng nhau tùy theo ý chí của người chết. Đồng thời họ có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại theo điều 637-BLDS 2005, nghĩa vụ tài sản họ phải thực hiện sẽ tùy theo phần mà họ được hưởng. Nếu người thừa kế khước từ hay không được nhận phần di sản để lại của người chết thì họ có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết.
2)Thừa kế theo di chúc:
Theo Điều 646 BLDS: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhầm chuyển dịch tài sản của mình cho người khác sau khi chết”.Theo qui định này thì di chúc phải đảm bảo các yếu tố sau:
- Đó là sự thể ý chí của cá nhân người lập di chúc mà không phải là của bất cứ chủ thể nào khác.
- Mục đích của việc lập di chúc là chuyển tài sản là di sản của mình cho người khác.
- Di chúc chỉ có hiệu lực khi người đó chết.
Di chúc là hành vi pháp lý đơn phương của người lập di chúc, do đó di chức phải tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự nói chung và điều kiện có hiệu lực của di chúc nói riêng.Vì vậy, muốn định đoạt tài sản của mình bằng di chúc cần tuân thủ các quy định của pháp luật về thừa kế theo di chúc.
Nội dung của bản thừa kế theo di chúc là ý nguyện của người chết khi còn sống để lại tài sản của mình là di sản cho những người còn sống, là chỉ định người thừa kế (cá nhân, tổ chức) và phân định tài sản, quyền tài sản cho họ, giao cho họ nghĩa vụ tài sản..
Người lập di chúc là cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi, có các quyền sau đây:
+ Chỉ định người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của người thừa kế:
- Người lập di chúc có quyền để lại di sản cho bất kì một cá nhân hay tổ chúc nào.Người nhân di sản có thể là cá nhân trong hay ngoài diện thừa kế theo qui định của pháp luật hay có thể là Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội…Quyền định đoạt của người lập di chúc còn thể hiện qua việc họ truất quyền hưởng di sản của những người thừa kế theo pháp luật mà không nhất thiết phải nêu lí do.Đặc quyền của người lập di chúc định đoạt tài sản của mình là rất lớn, tất cả đều dựa trên nguyên tắc tự do về quyền tài sản được pháp luật bảo về, quyền lập di chúc bình đẳng cho tất cả mọi cá nhân thuộc Điều 647 BLDS.
- Người lập di chúc còn có các đặc quyền khác như: giao nghĩa vụ cho người thừa kế trong phạm vi di sản; chỉ định người giữ di chúc, người quản lí di sản, người phân chia di sản; quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, h...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top