acat_0610

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối


LỜI MỞ ĐẦU.

Năm 2006 kết thúc, nền kinh tế Việt Nam được đánh giá là có những bước phát triển nhanh chóng. Hàng loạt sự kiện kinh tế, chính trị quan trọng đã thể hiện sự tự vươn lên của Việt Nam. Điều đó cho thấy 20 năm đổi mới đã mang lại cho chúng ta rất nhiều điều. Nhưng hầu như tất cả những nhà kinh tế lạc quan nhất vẫn tỏ ra e sợ về nền kinh tế Việt Nam. Bởi lẽ sự phát triển của chúng ta là tốt nhưng bên trong nó lại chứa những nguy cơ, thách thức khiến cho sự phát triển không thật sự vững chắc. Một trong những thách thức đó lại xuất phát từ chính nguồn gốc cho sự phát triển: đó là hoạt động đầu tư của Việt Nam. Là nước có tốc độ tăng trưởng thuộc top cao nhất thế giới, có tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP tăng nhanh qua các năm, nhưng thách thức về hiệu quả sử dụng vốn lại là bài toán khó đối với Việt Nam. Chỉ một so sánh nhỏ rằng Trung Quốc có tỷ lệ tăng trưởng bình quân cao hơn Việt Nam, nhưng họ lại có tỷ lệ sử dụng vốn và nguyên vật liệu ít hơn. Hơn nữa sự phát triển của Việt Nam lại không đi kèm với sự tăng lên tương xứng về tiềm lực công nghệ và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý. Điều đó khiến chúng ta không khỏi e sợ rằng Việt Nam đang phát triển nhưng không khỏi thua kém các nước khác một cách tương đối. Vì vậy, việc xem xét lại hoạt động đầu tư để tìm ra những hạn chế hòng khắc phục và đẩy mạnh hiệu quảt của hoạt động đầu tư là rất cần thiết và một điều có thể nhận thấy khá rõ ràng muốn phát triển nhanh và vững chắc cần có một cơ cấu đầu tư đảm bảo cho sự phát triển khoa học công nghệ một cách nhanh chóng. Đây chính là yêu cầu đặt ra cho việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu trên giác độ toàn bộ nền kinh tế.
Với mong muốn tìm hiểu về mối quan hệ đó, nhóm chúng tui đã có sự xem xét lại hoạt động đầu tư của Việt Nam trong khoảng thời gian từ sau Đại hội VII đến nay, và từ đó rút ra một số kết luận, giải pháp. Đó là nội dung của bài thảo luận mà nhóm chúng tui sẽ trình bày cùng các bạn hôm nay.


CHƯƠNG I: NHỮNG QUAN ĐIỂM CHUNG VỀ ĐẦU TƯ THEO CHIỀU RỘNG VÀ ĐẦU TƯ THEO CHIỀU SÂU.
1.1. Những vấn đề chung về đầu tư và phân loại đầu tư.
1.1.1. Khái niệm đầu tư và đầu tư phát triển.
1.1.1.1. Khái niệm đầu tư.
Theo nghĩa rộng đầu tư là sư hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó.
Nguồn lực đó có thể là tiền là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính( tiền vốn), tài sản vật chất( nhà máy, đường sá, các của cải vật chất khác..) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội. Trong các kết quả đã đạt được trên đây những kết quả là tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trong mọi lúc mọi nơi, không chỉ đối với người bỏ vốn mà còn đối với cả nền kinh tế. Những kết quả này không chỉ người đầu tư mà nền kinh tế được thụ hưởng.
Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện tại, nhằm đem lại cho nền kinh tế những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó.
Như vậy, nếu xét trong phạm vi quốc gia thì chỉ có những hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại để trực tiếp làm tăng các tài sản vật chất, nguồn nhân lực và tài sản trí tuệ, hay duy trì sự hoạt động của các tài sản và nguồn nhân lực sẵn có thuộc phạm trù đầu tư theo nghĩa hẹp hay đầu tư phát triển.
1.1.1.2. Bản chất của các loại đầu tư trong phạm vi quốc gia.
Từ sự phân tích trên đây, xuất phát từ bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại có thể phân biệt các loại đầu tư sau:
Đầu tư tài chính: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hay mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước( gửi tiết kiệm, mua trái phiếu chính phủ) hay lãi suất tuỳ từng trường hợp vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành( mua cổ phiếu, trái phiếu công ty). Loại đầu tư này không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức, cá nhân đầu tư. Với sự hoạt động của hình thức này, vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển dễ dàng khi cần có thể rút ra một cách nhanh chóng, điều đó khuyến khích người có tiền đầu tư. Đây là một nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển.
Đầu tư thương mại là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hóa và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và khi bán. Loại đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế( nếu không xét đến ngoại thương) mà chỉ lam tăng gia tài sản tài chính của người đầu tư trong qúa trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hoa giữa người bán với người đầu tư và người đầu tư với khách hàng của họ. Tuy nhiên đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra, từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu cho ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung.
Đầu tư phát triển: đó là việc bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây dựng sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, lắp đặt thiết bị và bồi dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội.
1.1.2. Phân loại các hoạt động đầu tư
Trong công tác quản lý và kế hoạch hoá hoạt động đầu tư các nhà kinh tế phân loại hoạt động đầu tư theo các tiêu chí khác nhau. Mỗi tiêu thức phân loại và đáp ứng nhu cầu quản lý và nghiên cứu kinh tế khác nhau. Những tiêu thức phân loại đầu tư thường được sử dụng là:
-Theo bản chất của các đối tượng đầu tư
-Theo cơ cấu tái sản xuất
-Theo phân cấp quản lý
-Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của các kết quả đầu tư
-Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư
-Theo giai đoạn hoạt động của các kết quả đầu tư trong quá trình tái sản xuất xã hội
-Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi đủ vốn đã bỏ ra của các kết quả đầu tư
-Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư.
-Theo nguồn vốn
-Theo vùng lãnh thổ
Trong phạm vi nội dung nghiên cứu chúng tui chỉ đề cập đến hình thức phân loại hoạt động đầu tư theo cơ cấu tái sản xuất
1.1.2.1. Tái sản xuất
Xã hội không thể ngừng tiêu dùng nên không thể ngừng sản xuất. Vì vậy, mọi quá trình sản xuất xét theo tiến trình đổi mới không ngừng thì đồng thời là quá trình tái sản xuất. Tái sản xuất là quá trình sản xuất được lặp lại thường xuyên và phục hồi không ngừng.
Có thể phân loại tái sản xuât theo những tiêu chí khác nhau:
-Căn cứ theo phạm vi, có thể chia tái sản xuất thành tái sản xuất cá biệt và tái sản xuất xã hội.Tái sản xuất diễn ra trong từng đơn vị kinh tế, từng xí nghiệp gọi là tái sản xuât cá biệt. Tổng thể của tái sản xuất cá biệt trong mối liên hệ hữu cơ vơi nhau gọi là tái sản xuất xã hội.
-Căn cứ vào quy mô, có thể chia tái sản xuất thành tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng
Tái sản xuất giản đơn là quá trình tái sản xuất được lặp lại với quy mô như cũ. Loại hình tái sản xuất này thường gắn với nền sản xuất nhỏ và là đặc trưng của nền sản xuất nhỏ.
Tái sản xuất mở rộng là quá trình sản xuất được lặp lại với quy mô lớn hơn trước. Loại hình tái sản xuất này thường gắn với nền sản xuât lớn và là đặc trưng của nền sản xuất lớn.
Trong lịch sử, việc chuyển từ tái sản xuất giản đơn lên tái sản xuất mở rộng là một quá trình phát triển lâu dài gắn liền với việc chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn.Tái sản xuât giản đơn gắn liền với sản xuất nhỏ, năng suất lao động thấp, chỉ đạt mức đủ nuôi sống con người, chưa có hay có rất ít sản phẩm thặng dư, những sản phẩm làm ra lại đem tiêu dung hết cho cá nhân.Tái sản xuất mở rộng đòi hỏi xã hội phải đat trình độ năng suất lao động vượt ngưỡng cửa sản phẩm tất yếu và tạo ra sản phẩm thặng dư ngày càng nhiều. Sản phẩm thặng dư là nguồn gốc để tích luỹ tái sản xuất mở rộng.
Tái sản xuất mở rộng gồm hai hình thức là tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng và tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu.
Tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng là sự mở rộng quy mô sản xuất, tăng thêm sản phẩm làm ra nhờ sử dung nhiều hơn các yếu tố đầu vào,các nguồn lực của sản xuất, trong khi năng suât và hiệu quả của các yếu tố sản xuất đó không đổi. Tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng chính là hình thức đầu tư theo chiều rộng.
Tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu là sư tăng lên của sản phẩm chủ yếu do tăng năng suât lao động và hiệu quả sử dụng các nguồn lực, còn các nguồn lực được sử dụng có thể không thay đổi, giảm hay tăng lên, nhưng mức tăng của chúng nhỏ hơn mức tăng của năng suất lao động và hiệu quả sử dụng các nguồn lực đó trong xã hội.Tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu chính là hình thức đầu tư theo chiều sâu.
Từ những căn cứ trên chúng ta sẻ tìm hiểu rõ thêm về hai hình thức đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu cũng như mối quan hệ của chúng ở các phần đươi đây.
1.1.2.2. Đầu tư theo chiều rộng
a, Khái niệm
Theo quan điểm tái sản xuất của Mác đầu tư theo chiều rộng là đầu tư nhằm mở rộng quy mô sản xuât nhưng không làm tăng năng suất lao động. Đầu tư theo chiều rộng cũng chính là đầu tư mới.
Theo quan điểm ngày nay thì đầu tư chiều rộng là đầu tư trên cơ sở cải tạo và mở rộng cơ sở vầt chất kỹ thuật hiện có, xây dựng mới các cơ sở vầt chất với nhưng kĩ thuật công nghệ cơ bản như cũ.
b, Đặc điểm của đầu tư theo chiều rộng.
Đầu tư theo chíều rộng là hoạt động đầu tư trên cơ sở hiện trạng phát triển thêm về mằt công nghệ không thay đổi công nghệ hiện có.
Tốc độ tăng của lao động thường là lớn hơn tốc độ tăng vốn
Đầu tư theo chiều rộng không dẫn đến tiết kiệm nguyên liệu và không làm tăng năng suất lao động
Đầu tư chiều rộng có hạn chế trong việc đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực áp dụng công nghệ và kỹ thuật
- Đầu tư theo chiều rộng đòi hỏi lương vốn lớn va vốn này nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Do đó đòi hỏi các nhà đẩu tư cần có sự lựa chọn kỹ càng để lựa chọn được cơ hội đầu tư mang lại hiệu quả cao nhât, tức là phải có một quá trình nghiên cứu tìm hiểu các yếu tố thị trường, các điều kiện tự nhiên và các yếu tố kinh tế chính trị xã hội trước khi đưa ra quyết định đầu tư nhằm bao đảm thu hồi vốn và có lãi.Cũng do lượng vốn lớn nên việc huy động vốn thườn gặp khó khăn và tốn nhiều thời gian.
-Đầu tư theo chiều rộng đòi hỏi thời gian thực hiện đầu tư và thời gian thu hồi vốn lâu: do phải thi công nhiều hạng mục công trình cho nên quá trình thực hiện đầu tư thương kéo dài, bên cạnh đó tác động của các yếu tố tự nhiên như thiên tai, địa hình và các yếu tố tiêu cực cũng ảnh hưởng không ít đến thời gian thi công.
Do vốn lớn nên việc sản xuất bù đắp cho lượng vốn bỏ ra mât rất nhiều thời gian cho nên thời gian thu hồi vốn lâu.
-Đầu tư theo chiều rộng có tính chất phức tạp và độ mao hiểm cao: tính chất phức tạp do phải xây dựng va lắp ghép nhiều hạng mục công trình. Trong quá trình thực hiện đầu tư, cũng do quá trình xây dựng phức tạp cộng với vốn lớn va tác động tiêu cực của các yếu tố khách quan và chủ quan cho nên đầu tư chiều rộng có độ mạo hiểm cao hơn.
c. Vai trò của đầu tư theo chiều rộng
Đầu tư theo chiều rộng có vai trò hết sức quan trọng.
Đối với toàn bộ nền kinh tế: đầu tư theo chiều rộng là nhân tố làm tăng quy mô của nền kinh tế, tạo đà cho nền kinh tế tăng trưởng với quy mô lớn hơn trước trên cơ sở xây dựng mới và mở rộng nhiều vùng kinh tế, nhiểu khu, cụm công nghiệp trên khắp cả nước.Do đó nó còn thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu vùng kinh tế, thúc đẩy ,tạo điều kiện và hỗ trợ các vùng kinh tế chậm phát triển, vùng sâu vùng xa được tham gia vào quá trình phát triển kinh tế của đất nước một cách tích cực hơn, mạnh mẽ hơn.
Đối với các doanh nghiệp: Đầu tư chiều rộng đi cùng vơi việc có thêm nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh được xây dựng thêm khiến cho quy mô sản xuất của các doanh nghiệp được mở rộng, đưa năng suất tăng lên cho phép khai thác hiệu quả theo quy mô. Nó còn góp phần tào ra nhiều việc làm mới, giải quyêt công ăn việc làm cho người lao động ở các địa phương; làm tăng doanh thu của các doanh nghiệp, góp phần làm tăng ngân sách nhà nước, đóng góp vào đà tăng trưởng chung của nền kinh tế. Đầu tư chiều rộng có hiệu quả càng nhiều thi doanh nghiệp càng có điều kiện về vốn, lao động tài nguyên ,công nghệ để phát triển sản xuất.
1.1.2.3. Đầu từ theo chiều sâu




DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO|
1. TS. Nguyễn Bạch Nguyệt- TS. Từ Quang Phương, giáo trình Kinh tế Đầu tư, Nhà xuất bản Thống kê, 2003.
2. Nhóm phóng viên, Việt Nam nên chọn ngành nào là ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn, Tạp chí Công nghệ, số tháng 10/ 2006.
3.Cục trưởng Cục Thống kê Hải Dương,Góp ý Dự thảo Đại hội X: Chất lượng tăng trưởng phải đặt lên hàng đầu, trên website của Trung tâm Nghe nhìn - Thông tấn xã Việt Nam, ngày 17/2/2006.
4.Bài phát biểu của Lãnh đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong Hội nghị Giao ban Đầu tư nước ngoài khu vực phía Bắc (ngày 15/12/2005) và khu vực phía Nam (ngày 20/12/2005), trên website của Bộ Kế hoạch và Đầu tư: mpi.gov.vn.
5. Định hướng các ngành công nghiệp chủ chốt,trên website của Ban điều hành đề án 112 của Chính phủ, ngày 16/04/2007.
6. Đầu tư vào công nghệ cao ở Việt Nam tiếp tục nóng,trên website của Ban điều hành đề án 112 của Chính phủ, ngày 18/01/2007.
7. Phải có đột phá để bứt lên, trên website của báo điện tử vietnamnet, ngày 10/12/2006.
8. Công nghiệp Việt Nam: Cơ hội và thách thức trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, trên website của chuyên mục Việt Nam trên đường hội nhập, ngày10-05-2006).

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU. 1
CHƯƠNG I: NHỮNG QUAN ĐIỂM CHUNG VỀ ĐẦU TƯ THEO CHIỀU RỘNG VÀ ĐẦU TƯ THEO CHIỀU SÂU. 2
1.1. Những vấn đề chung về đầu tư và phân loại đầu tư. 2
1.1.1. Khái niệm đầu tư và đầu tư phát triển. 2
1.1.1.1. Khái niệm đầu tư. 2
1.1.1.2. Bản chất của các loại đầu tư trong phạm vi quốc gia. 2
1.1.2. Phân loại các hoạt động đầu tư 3
1.1.2.1. Tái sản xuất 4
1.1.2.2. Đầu tư theo chiều rộng 5
1.1.2.3. Đầu từ theo chiều sâu 6
1.1.3. Nội dung của đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu. 8
1.1.3.1. Đầu tư theo chiều rộng. 8
1.1.3.2. Đầu tư theo chiều sâu 8
1.2. Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu. 9
1.2.1. Bản chất mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu. 9
1.2.2. Sự tác động 2 chiều giữa hai hình thức đầu tư này 11
1.2.3. Mối quan hệ mật thiết giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu trong sự tác động của môi trường 13
1.2.3.1. Sự tác động từ yếu tố cung cầu thị trường 13
1.2.3.2. Đặc tính của sản phẩm 14
1.2.3.3. Môi trường vĩ mô : 15
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ THEO CHIỀU RỘNG VÀ ĐẦU TƯ THEO CHIỀU SẦU Ở VIỆT NAM. 18
2.1. Tình hình chung về đầu tư ở Việt Nam 18
2.2. Những hạn chế 19
CHƯƠNG 3: NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾTHÀI HOÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ THEO CHIỀURỘNG VÀ ĐẦU TƯ THEO CHIỀU SÂU. 28
3.1. Phương hướng. 28
3.2. Giải pháp. 28
LỜI KẾT 32
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO| 33

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

noname090102

New Member
Tóm tắt nội dung tài liệu: do doanh nghiệp đó sản xuất ra sẽ lạc hậu, không tiêu thụ được.
Tiêu chí dùng để phân biệt 2 hình thức đầu tư này là quan hệ giữa tốc độ tăng vốn với tốc độ tăng năng suất lao động, là trình độ thiết bị công nghệ đưa vào đầu tư. Đầu tư theo chiều rộng là đầu tư mới hay mở rộng sản xuất. Trong trường hợp này, với một số vốn ban đầu nhất định sẽ làm cho lao động tăng nhanh hơn nhưng trình độ kỹ thuật- công nghệ không tiên tiến, hoạt động hơn kỹ thuạt công nghệ hiện có. Còn đầu tư theo chiều sâu là đầu tư được thực hiện trên cơ sở cải tạo , mở rộng và nâng cấp, đồng bộ hóa, hiện đại hóa cơ sở vật chất kĩ thuật hiện có hay có thể đầu tư một dây chuyền công nghệ , xây dựng một nhà máy mới, nhưng kĩ thuật công nghệ phải hiện đại hơn kĩ thuật công nghệ hiện có hay bình quân chung của ngành, địa phương.
Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai hình thức đầu tư này chỉ mang tính chất tương đối bởi trong hình thức đầu tư này thường chứa đựng hình thức đầu tư kia, và ngược lại. Khi áp dụng hình thức này sẽ không làm hạn chế hình thức kia mà là điều kiện và tiền đề để hình thức đầu tư kia phát triển. Khi một doanh nghiệp có kế hoạch thực hiện đầu tư, họ sẽ đứng trước một quyết định khó khăn,đó là đầu tư vào đổi mới công nghệ tăng năng suất lao đọng hay đầu tư mở rộng quy mô sản xuất. Tuy nhiên như đã nói ở trên hai việc này thường đi kèm với nhau, do vậy doanh nghiệp cần kết hợp một cách hợp lí nhất hai hình thức đầu tư này. Mặt khác nguồn lực đầu vào cho hoạt động đầu tư là hạn chế, nếu đầu tư vào chiều rộng thì sẽ thôi hay giảm bớt nguồn lực cho đầu tư theo chiều sâu và ngược lại. Hai cách thức đầu tư này có những đặc điểm, quy trình thực hiện... tương đối giống nhau. Tuy nhiên đầu tư theo chiều rộng mang tính chất tạo mới những điều kiện sản xuất kinh doanh trong khi những điều kiện kĩ thuật khác giữ nguyên. Còn đầu tư theo chiều sâu thì lại đi từ những thứ có sẵn và đổi mới, phát triển chúng lên một trình độ cao hơn hiện tại. Tuy đối lập song hai hình thức này tạo thành một mâu thuẫn biện chứng tồn tại trong sự thống nhất với nhau. Sự thống nhất đó thể hiện ở tác động ngang nhau của chúng.
1.2.2. Sự tác động 2 chiều giữa hai hình thức đầu tư này
Trong nền kinh tế , muốn tăng trưởng và phát triển được đều phải thực hiện một cách hiệu quả việc tái sản xuất. Thực chất đây là quá trình đầu tư cho sản xuất và đầu tư cho phát triển. Mọi quá trình sản xuất đều phải không ngừng đổi mới đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người. Tái sản xuất vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của việc tăng trưởng và phát triển kinh tế. Việc mở rộng sản xuất sẽ là điều kiện cần cho tổng sản phẩm quốc dân tăng thêm và là yếu tố thúc đẩy quá trình phát triển. Nền kinh tế càng phát triển càng có nhiều điều kiện tốt hơn cho đầu tư.
Đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu là hai hình thức đầu tư theo cơ cấu tái sản xuất. Hai hình thức này tuy có sự khác biệt tương đối song chúng luôn gắn liền với nhau, đi kèm thúc đẩy lẫn nhau. Đầu tư theo chiều rộng được tiến hành khi bắt đầu sản xuất kinh doanh, hay trong quá trình sản xuất kinh doanh muốn mở rộng quy mô. Đến một thời điểm nào đó, khi dây chuyền sản xuất đã cũ, khó tiếp tục duy trì năng suất hiện có, chúng ta nên tiến hành đầu tư theo chiều sâu. Khi yêu cầu của hãng là tăng thị phần, tăng chỗ đứng cho sản phẩm và vị thế của mình, hay khi muốn cải thiện hay duy trì năng lực, tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm và doanh nghiệp, tạo đà cho một sự phát triển ổn định lâu dài. Hai hình thức này gắn kết, bổ sung cho nhau để cùng đưa ra các giải pháp kĩ thuật cải tiến phù hợp với doanh nghiệp để đạt công suất cao nhất có thể và đem lại lợi ích tối đa. Không một doanh nghiệp nào có thể sử dụng một trong hai biện pháp riêng lẻ mà phải sử dụng chúng một cách linh hoạt, kết hợp giữa đầu tư theo chiều sâu và đầu tư theo chiều rộng nhằm thu được hiệu quả cao nhất.
Đầu tư theo chiều rộng là nền tảng để đầu tư theo chiều sâu có hiệu quả. Doanh nghiệp khi mới hình thành và hoạt động đều phải bắt đầu đầu tư theo chiều rộng . Đó là chuẩn bị các điều kiện để tiến hành sản xuất kinh doanh như xây dựng cơ sở hạ tầng, mua sắm các máy móc thiết bị , đào tạo và tuyển dụng nguồn nhân lực. Đây là nền tảng không thể thiếu và hết sức quan trọng nó chính là đòn bẩy là giai đoạn tiền đề giúp cho các doanh nghiệp có những bước tiến tiếp theo. Việc tiến hành đầu tư theo chiều rộng phải đảm bảo tiến độ, khi những điều kiện khởi đầu được hoàn thành tốt, kịp thời thì việc sản xuất theo kế hoạch sẽ thu được những lợi thế rõ rệt. Tuy nhiên, khi quá trình sản xuất kinh doanh đi vào ổn định , chúng ta cần đầu tư tiếp để hoàn thiện bộ máy cho năng suất cao, ổn định.
Và ngược lại đầu tư theo chiều sâu là yếu tố quan trọng để có quyết định đầu tư theo chiều rộng một cách cụ thể. Đầu tư theo chiều sâu là việc tiến hành cải tạo, nâng cấp dây chuyền công nghệ, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực…Những biện pháp này sẽ làm tăng năng suất lao động , sản xuât được nhiều sản phẩm với chất lượng tốt hơn, giá thành rẻ hơn. Từ đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng sản xuất, tăng doanh thu, chiếm lĩnh thị trường. Hoạt động đầu tư theo chiều rộng chỉ đem lại hiệu quả trong một giới hạn nhất định của công nghệ , trình độ sản xuất. Nếu đầu tư theo chiều rộng quá mức sẽ dẫn tới mâu thuẫn với trình độ quản lí , trình độ sản xuất , khả năng công nghệ …làm cho doanh nghiệp cồng kềnh mà không đạt hiểu quả thậm chí còn giảm năng suất.
Có thể lấy một ví dụ về việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu , đó là công ty gạch ngói Mĩ Xuân. Trước kia đây là công ty phát trỉên khoáng sản 6 thuộc tổng công ty khoáng sản 5 , Năm 1996 công ty phát triển khoáng sản 6 đầu tư xây dựng nhà máy Mĩ Xuân với công suất thiết kế là 25 triệu viên sản phẩm quy chuẩn /năm , tổng vốn đầu tư là 22,5 tỉ đồng. Một năm sau nhà máy đi vào sản xuất sản phẩm sản xuất ra luôn trong tình trạnt “cháy” sản phẩm. Do đó năm 2001 nhà máy đã đầu tư thêm 10,5 tỉ đồng để mở rộng công suất thiết kế lên 37 triệu viên/năm. Nhờ việc đầu tư mở rộng này mà doanh thu liên tục tăng: năm 2004 là 33.050tr đồng (tăng 1% so với 2003) . Năm 2005 là 39.959tr đồng (tăng 21%).Đến 2005 công ty đã đầu tư dây chuyền hiện đại sản xuất ngói xi măng mầu với công nghệ phủ màu ướt của Italy , công suất thiết kế là 2triệu viên /năm với vốn đầu tư gần 10 tỉ đồng , sản phẩm này nhanh chóng chiếm được thị trường, Nâng doanh thu 2006 lên 44 tỉ đồng(tăng 15%) .Nhờ có sự thành công đó công ty không ngưng mở rộng thị trường ra cả nước, do vậy đến nay công ty đã có tới 300 đại lí và cửa hàng đặc biệt có trên 90% sản phẩm từ dây chuyền ngói mới tiêu thụ ở TP HCM. Cuối 2006 công ty lại tiếp tục đầu tư dây chuyền sản xuất thứ 3 với công suất thiết k
ad cho em xin link tải file này với ạ
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
V Đánh giá hiện trạng và xây dựng giải pháp kiểm soát ô nhiễm môi trường tại Chợ Đầu Mối Nông Sản Thực Khoa học Tự nhiên 0
N Thực trạng về mối quan hệ với các nhà cung cấp ở Hà Nội của công ty Vinatour Luận văn Kinh tế 8
T Thực trạng mối quan hệ giữa đầu tư và sản lượng trong nền kinh tế Việt Nam qua các giai đoạn Luận văn Kinh tế 0
T Đánh giá thực trạng phát triển Biogas trong mối quan hệ với các ngành sản xuất trong nông thôn ở huy Luận văn Kinh tế 0
N Thực trạng về mối quan hệ với các nhà cung cấp ở Hà Nội của công ty điều hành hướng dẫn du lịch Vinatour Luận văn Kinh tế 2
J Thực trạng về huy động và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. mối quan hệ giữa hiệu quả sử dụng vốn với khả Luận văn Kinh tế 0
W Mối quan hệ giữa khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam. Thực trạng và giải Luận văn Sư phạm 0
D Phân tích đánh giá thực trạng sử dụng đất trong mối quan hệ với quy hoạch nông thôn mới phục vụ quản Khoa học Tự nhiên 0
A Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập: thực trạng và giải pháp ở Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
B Thực trạng mối quan hệ tác động qua lại giữa đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam Tài liệu chưa phân loại 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top