daigai

Well-Known Member
LINK TẢI LUẬN VĂN MIỄN PHÍ CHO AE KET-NOI

LỜI MỞ ĐẦU
Là một sinh viên năm thứ tư, đã được trang bị tương đối đầy đủ kiến thức của chuyên ngành Lịch sử Văn hoá, tui phải hoàn thành luận văn tốt nghiệp và cũng là bước đầu làm quen với công việc nghiên cứu.
tui có may mắn là được người hướng dẫn Luận văn tốt nghiệp của tui - TS Lâm Mỹ Dung gợi ý và tạo mọi điều kiện cho tui vào Duy Xuyên - Quảng Nam để tìm hiểu về đời sống văn hoá của một làng nghề truyền thống ở đây.
Lần đầu tiên chen chân đến miền Trung và với mục đích tìm hiểu về đời sống văn hoá của một làng nghề, do kiến thức cá nhân còn ít ỏi và điều kiện thời gian thực tế hạn hẹp, nên dù đã có được sự chỉ bảo, hướng dẫn, góp ý tận tình của thầy cô và bạn bè trong quá trình tìm kiếm tư liệu và cũng như khi hoàn thành luận văn nhưng luận văn vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu sót. tui rất mong có sự chỉ dẫn, góp ý thêm.
Để hoàn thành được luận văn này, tui xin Thank các thầy cô của Bộ môn Lịch sử Văn hoá và Khoa Lịch Sử, trường ĐH KHXH&NV HN - nơi tui đã vàđang học tập; Thank Phòng Văn hoá huyện Duy Xuyên, đặc biệt là chú Dương Đức Quí và chị Nguyễn Thị Tuyết; Thank thầy Nguyễn Chiều đã góp ý và cung cấp tư liệu cho tôi; Thank Ban dân chính, các cụ phụ lão và bà con thôn Châu Hiệp đã giúp đỡ tui rất nhiều trong thời gian tui thực tập ởđây.
Cuối cùng, tui muốn bày tỏ lòng biết ơn của tui với TS Lâm Mỹ Dung - giáo viên hướng dẫn của tui - người đã dẫn dắt và chỉ bảo cho tui không chỉ trong quá trình làm luận văn tốt nghiệp này.
2

1. Mục đích nghiên cứu
Người Việt từ xưa (và cho đến nay) đa phần là nông dân. Môi trường
sống của họ là Nông thôn - Nông nghiệp - Xóm làng. Phổ xã hội Việt Nam truyền thống là Gia đình - Họ hàng - Làng nước. Trong tiến trình lịch sử dân tộc, làng xã có một vai trò hết sức to lớn. Nó là tế bào sống của xã hội Việt Nam, là môi trường sinh tụ và hoạt động của nông dân Việt Nam. Mỗi bước thăng trầm của dân tộc thường để lại những dấu ấn đậm nét trong đời sống làng xã.
Làng nghề truyền thống là nguồn tài sản quý giá của đất nước cần được bảo tồn và phát triển. Tài sản đó không chỉ mang ý nghĩa kinh tế - xã hội mà còn thể hiện nền văn hoá, văn minh độc đáo của dân tộc Việt Nam. "Những làng nghề ấy ít nhiều đã nổi danh từ lâu (có một quá khứ trăm ngàn năm) "dân biết mặt, nước biết tên", tên làng đã đi vào lịch sử, vào ca dao tục ngữ... trở thành di sản văn hoá dân gian"[36.372].
Sau một thời gian mai một, hiện nay làng nghề đã và đang được quan tâm phát triển. Sự đổi mới cơ chế quản lý cũ sang cơ chế thị trường với sự điều tiết của nhà nước từ Đại hội VI (năm 1986) đã tạo ra bước ngoặt quan trọng, thúc đẩy sự phát triển sản xuất nói chung và các ngành nghề truyền thống nói riêng. Sự phát triển của làng nghề, đặc biệt là những ngành nghề mới trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH-HĐH) nông thôn là một xu hướng tất yếu khách quan. Nhưng hiện nay vẫn còn không ít các làng nghề chưa phục hồi được sản xuất, nhiều nghề bị mai một, đội ngũ nghệ nhân ngày càng suy giảm. Các làng nghề cũng đang đứng trước những khó khăn thách thức như là thị trường tiêu thụ sản phẩm, nguồn vốn, trang thiết bị công nghệ...[2.235]. Vì vậy vấn đềđặt ra là phải tìm hiểu các làng nghề truyền thống, phải có một cái nhìn
3

toàn thể về nó. Từ đó mới có thể hoạch định những phương hướng, cách thức bảo tồn và phát triển làng nghề trong giai đoạn hiện nay.
Bảo tồn làng nghề truyền thống cũng chính là bảo tồn các giá trị văn hoá dân tộc. Muốn bảo tồn và phát triển các làng nghề thì trước hết, chúng ta phải tìm hiểu những yếu tố văn hoá truyền thống của làng nghề. Bởi "văn hoá"được coi "là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa làđộng lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội" như Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCHTƯĐảng (Khoá VII) đãđề ra. Những yếu tố truyền thống đó kết hợp với những yếu tố hiện đại như thế nào và vai trò của nó trong sự phát triển của làng nghề? Như vậy mới có thể bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình CNH-HĐH một cách có hiệu quả. Đây cũng chính là mục đích của luận văn tốt nghiệp "Làng dệt Mã Châu - xưa và nay".
Khi đặt Xưa (truyền thống - theo cách hiểu thông thường là những giá trị văn hoá từ xưa để lại) và Nay (hiện đại), tui không cóýđịnh so sánh, mà dựa trên tinh thần "ôn cố tri tân" (tìm cũđể biết mới). Bởi chỉ có hiểu biết sâu sắc về làng nghề và những yếu tố văn hoá truyền thống của làng nghề thì khi gia nhập vào công cuộc CNH-HĐH chúng ta mới có thể phát huy tốt vai trò của làng nghề mà không làm mất đi những giá trị văn hoá riêng đặc sắc của nó.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Làng xã là đối tượng nghiên cứu của Khoa học Lịch sử và nhiều ngành
khoa học khác với diện nghiên cứu đa dạng và phong phú. Đến nay việc nghiên cứu đã đạt được nhiều kết quả. Các công trình nghiên cứu chung hay mang tính chất chuyên khảo về làng nghề cũng đã được nhiều người công bố.
Làng dệt Mã Châu và làng xã vùng Duy Xuyên- Quảng Nam nói chung, vì nhiều lý do, việc nghiên cứu mới có những kết quả chung có tính chất
4

khái quát, ít có những công trình nghiên cứu chuyên sâu. Và về làng nghề Mã Châu chỉ có một số bài viết chung, gián tiếp đề cập đến.
- Bài viết: Câu ca làng nghề của Văn Thành Lê đăng trên tạp chí Văn hoá Quảng Nam số 18 tháng 12.1999. Trên cơ sở tìm hiểu nghề dệt ở Duy Xuyên, ông nói đến ảnh hưởng của nghề dệt với đời sống cư dân ởđây.
- Bài báo: Duy Xuyên ngày mai xanh lại những biền dâu? của Hoàng Thơ trên báo Quảng Nam chủ nhật ngày 9.3.2003. Từ những số liệu của nghề dâu tằm ở Duy Xuyên trong những năm gần đây, tác giả khẳng định khả năng phát triển của nghề dệt ở vùng này.
- Bài viết: Ông Cửu Diễn - người du nhập kỹ thuật dệt mới vào Duy Xuyên (tư liệu của chị Nguyễn Thị Tuyết - Phòng Văn hoá huyện Duy Xuyên) nói về sự cải tiến kỹ thuật dệt ở Duy Xuyên hồi đầu thế kỷ XX.
3. Các nguồn tư liệu
Để hoàn thành luận văn, tui đã sử dụng những nguồn tư liệu sau:
3.1. Tư liệu chữ viết 3.1.1. Thư tịch cổ gồm có:
- Thuỷ kinh chú [9]
- Đại Việt sử ký toàn thư [3] - Phủ biên tạp lục [8]
- Đại Nam nhất thống chí [19] - Đồng Khánh địa dư chí [5]
3.1.2. Tư liệu chữ viết sưu tầm tại địa phương gồm có:
- Quy ước văn hoá thôn Châu Hiệp [20] - Dự thảo tộc ước làng mã Châu [1] - Tóm tắt lược sử các chư phái tộc làng Mã Châu [32]
5

- Gia phả họ Phạm thôn Mã Châu Thượng (chữ Hán)
- Gia phả họ Trịnh thôn Mã Châu Đông (cả phần chữ Hán và bản dịch) 3.2.Tư liệu điền dã
Trong điều kiện làng nghề Mã Châu mới chỉ có những bài nghiên cứu chung, mang tính chất nền tảng bước đầu, chưa có sựđi sâu, tìm hiểu toàn diện thì tư liệu điền dã là một nguồn tư liệu quan trọng giúp tui thu thập thông tin để phục vụ cho luận văn. Phương pháp điền dãđược sử dụng để lấy những loại thông tin:
- Nghề dệt truyền thống (với những công đoạn trông dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa).
- Phong tục tập quán và sinh hoạt văn hoá của cư dân làng Mã Châu.
- Các hoạt động trao đổi, buôn bán...
Trong đó nguồn tư liệu hồi cố của các cụ già trong làng là một nguồn tư
liệu vô cùng quý báu vì luận văn chủ yếu nghiêng về khía cạnh văn hoá của làng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Những phương pháp nghiên cứu đã được tui sử dụng để hoàn thành
luận văn gồm:
Phương pháp điền dã dân tộc học và phương pháp phỏng vấn được sử
dụng trong thời gian khảo sát và sưu tầm tư liệu tại địa phương. Đây là những phương pháp chủ yếu được tui sử dụng để thu thập tư liệu phục vụ cho luận văn.
Dựa trên những nguồn tư liệu thu thập được tui đã sử dụng phương pháp so sánh, phân tích và tổng hợp tư liệu. Từđó hệ thống hoá những tư liệu đã thu thập được đểđưa vào hoàn thành luận văn.
6

Phương pháp tiếp cận liên ngành là phương pháp quan trọng được tui sử dụng từ khi khảo sát điền dã lấy tư liệu cho tới khi hoàn thành luận văn. Bởi văn hoá làng là"một phức thể thống nhất trong đa dạng"[36.25] cần được tiếp cận và nghiên cứu từ nhiều hướng.
5. Bố cục luận văn
Luận văn gồm có ba phần: Phần mở đầu (6 trang); Phần nội dung
(52trang) và phần kết luận (3 trang).
Nội dung của luận văn được chia làm 3 chương:
- Chương 1: Khái quát về điều kiện tự nhiên-lịch sử, xã hội và con
người.
- Chương 2: Làng nghề truyền thống.
- Chương 3: Đôi nét về tín ngưỡng, tôn giáo và phong tục tập quán của
cư dân Mã Châu.
Ngoài ra luận văn còn có phần tài liệu tham khảo, sách dẫn và phụ lục
gồm 20 trang.
7

Chương 1: KHÁIQUÁTVỀĐIỀUKIỆNTỰNHIÊN-LỊCHSỬ, XÃHỘIVÀCONNGƯỜI
1.1. Điều kiện tự nhiên
Làng Mã Châu (theo tên địa giới hành chính là thôn Châu Hiệp) thuộc
thị trấn Nam Phước, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, nằm cách thành phốĐà Nẵng 30 km đi theo Quốc lộ 1A, đoạn từĐà Nẵng đi Tam kỳ - Quảng Nam.
Vị tríđịa lý của làng Mã Châu, phía Tây tiếp giáp sông Cầu Chìm (một đoạn của sông Bà Rén, vìởđoạn sông này có cây cầu Chìm bắc qua sông nên gọi như vậy), bên kia sông là Ngũ xã Trà Kiệu. Phía Đông - Nam giáp làng Mậu Hoà cũng cách nhau ở nhánh thượng lưu sông Bà Rén. Phía Bắc tiếp giáp với làng Trung Lương (thôn Xuyên Tây 1) lấy đường gianh giới là con đường tỉnh lộ 610 (chạy từ Bàn Thạch đến Mỹ Sơn). Mã Châu nằm ở phía đỉnh tam giác đồng bằng châu thổ Duy Xuyên, nơi chia dòng giữa hai con sông Thu Bồn và Bà Rén.
Làng Mã Châu có tổng diện tích đất tự nhiên là 126 ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp là 46 ha, diện tích đất thổ cư là 43 ha, phần còn lại là diện tích ao hồ, sông suối vàđất bồi ở ven sông. Với 560 hộ, dân số là 2692 người.
8

Quảng Nam là vùng đất có nhiều sông ngòi >1km/1km2 nhưng sông ngòi ởđây ngắn và dốc "từ nguồn suối núi rừng đến vịnh cửa sông đổ ra biển chỉ cách nhau khoảng 100 - 150 km đường chim bay. Nước sông thường trong xanh và như thế có nghĩa làít phù sa và những đồng bằng do chúng tạo thành thì không lớn. Tuy nhiên so với Bình Trị Thiên Trung Trung bộ, ởđất Quảng đường cốt núi lùi vào trong hơn vì thế màđồng bằng lại rộng ra, đồng thời còn phát triển sâu vào trong vùng đồi ngược theo các thung lũng sông nhỏ. Chính vì thế màởđất Quảng núi - đồi - đồng bằng dính liền với nhau khá chặt"[37.424]. Quảng Nam có hai nguồn sông lớn là sông Vu Gia và sông Thu Bồn gặp nhau tại vùng Giao Thuỷ (Đại Lộc) vàđến Duy Xuyên thì chia thành hai nhánh cùng đổ ra cửa Đại là nhánh sông Thu Bồn ở phía Bắc và nhánh sông Bà Rén ở phía Nam nhỏ hơn.
Sông Thu Bồn bắt nguồn từ núi Ngọc Linh (cao 2.859m), nằm giáp giữa huyện Trà My và Kon Tum, nơi có lượng mưa trung bình 4000 mm/năm [26.34]. Do vậy, sông Thu Bồn và Vu Gia là hai dòng sông lớn đã hợp lưu với nhau bồi đắp nên vùng đất đai trù phúĐiện Bàn, Đại Lộc, Duy Xuyên... nhưng càng về phía Đông càng pha nhiều cát biển và phải chịu ảnh hưởng của thuỷ triều. Những vùng khác nhưđồng bằng sông Ly Ly, Tam Kỳ, đất pha nhiều cát và cùng kiệt hơn đất vùng sông Thu Bồn, do sông nhỏ, nước lũ không lớn, phù sa không nhiều, không đủ nước tưới cho ruộng đồng về mùa hạn [37.418-431]. Nóđãđược tổng kết trong câu thơ dân gian:
Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm1
1GS TrÇn Quèc V−îng ®· m« h×nh ho ̧ miÒn Trung thμnh mét h×nh hép ch÷ nhËt vμ mçi xø, vïng lμ nh÷ng h×nh hép ch÷ nhËt ngang víi nh÷ng thμnh tè: Nói ®åi - §Ìo - S«ng - §Çm ph ̧ - C¶ng ven s«ng, ven biÓn - H¶i ®¶o vμ c ̧c thμnh tè Nói - BiÓn - S«ng - §Ìo tuy cã yÕu tè chia c3⁄4t c ̧c vïng miÒn song l1i mang yÕu tè g1ch nèi nhiÒu h¬n [37.309-340].
9

Do tính chất sông ngòi như vậy màđất đai ởđây xưa kia phần lớn làđất khô cằn, nước tưới tiêu cho đồng ruộng hoàn toàn phụ thuộc vào "nước trời". Duy chỉ có vùng hạ lưu các sông, đặc biệt là hạ lưu sông Thu Bồn (vùng Duy Xuyên, Điện Bàn) nhờ phù sa hàng năm bồi đắp nên hai bên bờ sông tạo thành những đồng ruộng phì nhiêu thuận lợi cho việc canh tác, trồng trọt, nhất là trồng lúa, trồng dâu [22.202].
Huyện Duy Xuyên nằm dọc về phía bờ Nam sông Thu Bồn, địa hình trải dài từ núi ra biển, có bốn nhánh sông lớn là Vu Gia, Thu Bồn, Bà Rén và Trường Giang. Đất đai ởđây được thừa hưởng nguồn phù sa dồi dào từ thượng nguồn các nhánh sông Thu Bồn đổ về làm cho màu mỡ, dần dần đẩy lùi nước biển từ bãi cát Tây An, xã Duy Trung tạo thành những giải đất phì nhiêu kéo dài từ miếu Thành Hoàng Mã Châu cho đến Phụng Châu, Long Châu, Triều Châu... của xã Duy Phước, Duy Vinh ngày nay. Làng Mã Châu với địa thếởđỉnh tam giác châu lại được bao quanh bởi sông Bà Rén nên hàng năm, sau mỗi mùa lũđã nhận được một lượng phù sa đáng kể, rất thuận lợi cho sự phát triển nghề nông tang ởđây.
Nói chung, địa hình ở Duy Xuyên đồi núi, sông hồ, đầm phá gắn kết với nhau khá chặt chẽ. Vùng đồng bằng sông Thu Bồn sông hồ lầy lội, đi ghe thuyền tiện hơn đi chân. Việc đặt tên các xứđất ở Mã Châu: Đồng Rẫy, Lục Nhơn, Bàu Trước, Bàu Tự, Bàu Răm, Bàu Mạn, Bàu Tỉnh, Bàu Khế, Bàu Chùa, đất bồi xóm bãi (Thượng tự phù sa đồng canh xứ)... cũng đã phần nào nói nên điều này.
Mã Châu trong bối cảnh Duy Xuyên - Quảng Nam nói chung thuộc đới khí hậu Á xích đạo, với lượng cân bằng bức xạ 95 kcal/cm2/năm (tổng nhiệt độ 9500°C). Đất Quảng Nam nằm trong gianh giới vĩ tuyến 14°B đến 16°B, không có mùa khô rõ rệt do tác dụng bức chắn của khối núi Bắc Kon Tum. Cũng vì vậy
10

mà trong mùa gióĐông Bắc, Quảng Nam vẫn giữđược một lượng mưa đáng kể. Nhiệt độ trung bình các tháng đều >20°C nên ở Quảng Nam không có mùa
Đông lạnh. Mùa mưa ởđây "lệch pha" so với hai đầu Nam Bắc, bắt đầu từ tháng 9, tháng 10, giảm dần về cuối năm và kết thúc vào tháng 1. Từ tháng 5 đến tháng 8, do ảnh hưởng của gió Lào làm khí hậu khô nóng. Đại Nam nhất thống chí, mục Quảng Nam tỉnh chép: "Khí trời nóng nực, nhiều lạnh ít mưa; chất đất phù bạc, nhiều khô hạn ít màu mỡ. Hết tháng chạp thì gióĐông nổi, tiết kinh chập thì mưa xuân phần; gió Nam mạnh về mùa Hạ, gió Bắc rét về mùa Đông; mùa Thu gió mát mà hay mưa lụt (các tháng 8, 9, 10 thường hay mưa lụt), mưa Đông hết lụt thì bãi sông bằng (mùa Đông sau khi mưa lụt thì bãi sông bằng phẳng tức là hết kỳ mưa lụt)... Thỉnh thoảng cũng có gió bão"[19.337].
Do ảnh hưởng của khí hậu Á xích đạo nên thành phần sinh vật mang nhiều đặc điểm Mã Lai, Iđônêsia...
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển làng Mã Châu.
Làng Mã Châu (mà theo tên hành chính là thôn Châu Hiệp, xã Duy An
cũ hay thi trấn Nam Phước mới thành lập năm 1995) trong bối cảnh toàn vùng Duy Xuyên và mở rộng hơn là xứ Quảng - Quảng Nam là vùng đất có truyền thống lịch sử lâu đời. Nóđãđược GS Trần Quốc Vượng khái quát: "Ở xứ Quảng - Quảng Nam - Việt Nam lại có sự xếp tầng (stratigraphi) xếp lớp văn hoá, quá trình lắng đọng - trầm tích (sédimentation) văn hoá qua diễn trình lịch sử kể từ dưới lên trên:
7 - Văn hoá Quảng Nam hiện đại. 6 - Văn hoá Kinh - Việt.
5 - Văn hoá Chămpa - Ấn.
4 - Văn hoá Sa Huỳnh - Đại Lộc.
3.1. Sự thờ cúng.
3.1.1. Thờ Tiền Hiền khai canh.
Hơi khác với những làng Việt ở miền Bắc, đình làng ở Mã Châu (và miền Trung nói chung) dùng để thờ Tiền hiền, Hậu hiền - những người có công đến khai canh, khai cư thành lập làng.
Theo hồi cố của các cụ già trong làng thì trước đây ở bốn thôn (Đông - Thành - Tây - Thượng) mỗi nơi có một ngôi đình thờ Tiền hiền riêng và ngôi đình (Tiền hiền Tứ Mã) thìở trong khuôn viên của HTX ươm dệt Nam Phước hiện nay. Trong chiến tranh tất cả các ngôi đình đã bị tàn phá và các đồ vật trong đình cũng đã bị thất lạc hết.
Ngôi đình Tiền hiền Tứ Mã hiện nay được làm mới vào năm 2001. Đình được xây theo kiểu nhà ngang, các cột và trên nóc đình có trang trí rồng, phượng. Phía ngoài, trước cửa đình qua một khoản sân có một bức bình phong, một góp sân có bàn thờ thổđịa và phía ngoài cùng là cổng tam quan.
Cách bài tríở trong đình: có năm bàn thờ, ở giữa thờ Tiền hiền Mã Châu; bàn thờ hai bên tả hữu thờ Hậu hiền và tổ nghề dệt; hai bàn thờở ngoài cùng, một bên thờ những người đỗđạt thời phong kiến và một bên thờ những anh hùng, liệt sỹ - con em của làng Mã Châu có công với nước; Phía trên bàn thờ, ở gian giữa treo bức hoành phi đề bốn chữ "Tuấn mã hoa lưu" (Hoa Lưu : là tên một con ngựa trong số tám con ngựa tốt của Chu Mục vương).
Hàng năm đến ngày mùng 10/3 Âm lịch dân làng tổ chức cúng tế. Trước ngày đó dân làng họp lại và bầu ra ban trị sự lo việc chung (đó là những
47

cụ già cao tuổi, giàu kinh nghiệm) và một ban tế (một số cụ già cao tuổi nhất hay có kinh nghiệm nhất và thầy cúng).
Sáng ngày 10/3 lễ tếđược tiến hành, người ta bầy biện toàn bộ các lễ vật lên bàn gồm: Hương đăng, hoa quả, giấy tiền, vàng mã, heo gà...
Ban tế mặc khăn đóng áo dài, chủ tế mặc áo đỏ, hai người bồi tế mặc áo xanh. Trước khi tế người ta kiểm tra lại lễ vật lần cuối, sau đó các thành viên trong ban tếđứng vào vị tríđể làm lễ. Quá trình hành lễ tiến hành theo mệnh lệnh của người nội xướng (người đọc các quá trình làm lễ). Lễ tếđược tiến hành theo trình tự:
- Đánh ba hồi trống, ba hồi chiêng và cử nhạc lễ. - Chủ tế tiến lên dâng hương.
- Chủ tế và bồi bái lạy bốn lạy.
- Chủ tế dâng rượu.
- Đọc văn tế.
- Chủ tế dâng rượu lần hai, sau đó lui ra để dân làng vào lễ.
- Tại lễ, ban lễ lạy bốn lạy và nổi chiêng trống kết thúc quá trình tế lễ.
- Đốt vàng mã.
Trong văn tế Tiền hiền Mã Châu cóđoạn: "Nhân tùng bắc địa, trạch thử
nam thiên, quy dân lập xã, thất thổ khai điền, dũ nhân dân chi lạc lợi, thuỳđức hạnh di diên niên: Tư nhân kỵ nhật, kính dõng (dũng) hương yên, thượng kỳ gián giám..." .
(Tạm dịch: Người từđất Bắc, đến ở phía Nam, quy dân lập xã, vỡđất làm rộng, làm lợi cho nhân dân, đểđức hạnh muôn đời: Ngày kỵ hôm nay, kính dâng nén hương, mong ở trên chứng giám...).
Sau khi tế mọi người cùng ra Đình ngồi ăn uống. Thứ tựởđình, gian giữa dành cho ban tế và các cụ già, còn hai bên là dân đinh trong làng. Vì là lễ
Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp cải thiện môi trường làng nghề nấu rượu truyền thống xã Vân Hà, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang Khoa học Tự nhiên 0
L Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát triển du lịch làng nghề truyền thống Hải Dương Kiến trúc, xây dựng 0
P Thực trạng và các giải pháp chủ yếu phát triển làng nghề truyền thống Đại Bái tỉnh Bắc Ninh Luận văn Kinh tế 0
D PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT NGHỀ TRUYỀN THỐNG TRONG CÁC LÀNG NGHỀ HUYỆN DUY TIÊN, TỈNH HÀ NAM Nông Lâm Thủy sản 0
V Phát triển du lịch làng nghề truyền thống ở Hà Nội Luận văn Kinh tế 0
D Phát triển bền vững làng nghề truyền thống trên địa bàn huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội Văn hóa, Xã hội 0
B Khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống ở Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
M Phát triển làng nghề truyền thống theo hướng bền vững trên địa bàn huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định Luận văn Kinh tế 1
G Nghiên cứu phát triển du lịch làng nghề truyền thống tại thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp Địa lý & Du lịch 0
T Phát triển du lịch cộng đồng tại các làng nghề truyền thống ở thành phố Nha Trang Địa lý & Du lịch 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top