Download Học kỳ tố tụng hình sự- Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, thực tiễn thi hành và hướng hoàn thiện

Download miễn phí Học kỳ tố tụng hình sự- Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, thực tiễn thi hành và hướng hoàn thiện





Tương ứng với những quyền mà người bào chữa có được theo quy định của BLTTHS năm 2003 thì theo khoản 3 Điều 58 BLTTHS năm 2003 thì người bào chữa có những nghĩa vụ sau:
Một là, Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can bị cáo.
Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Việc giao nhận các tài liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa và cơ quan tiến hành tố tụng phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 95 của Bộ luật này.
Hai là, Giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Ba là, Không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình đã đăm nhận bào chữa, nếu không có lí do chính đáng.
Bốn là, Tôn trọng sự thật và pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng ép hay xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật.
Năm là, Có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án.
Sáu là, Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan tổ chức và cá nhân.
Người bào chữa làm trái pháp luật thì tùy theo tính chất và mức độ vi phạm mà bị thu hồi giấy chứng nhận bào chữa, xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hay truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

án hay hội đồng xét xử cấp giấy chứng nhận người bào chữa. Một người bào chữa có thể bào chữa cho nhiều bị can, bị cáo trong cùng vụ án nếu quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau. Một bị can, bị cáo có thể nhờ hai hay nhiều người bào chữa cho mình. Người đã tiến hành tố tụng trong vụ án hay là người thân thích của những người này hay đã tham gia tố tụng với tư cách là người làm chứng, người giám định, người phiên dịch trong vụ án thì không được bào chữa ở vụ án đó nữa. Theo Điều 58 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003, người bào chữa được tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội đặc biệt nguy hiểm, xâm phạm an ninh quốc gia thì người bào chữa được tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra. Đặc biệt trong các trường hợp bắt người khẩn cấp và bắt người phạm tội quả tang hay đang bị truy nã thì người bào chữa được tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ.
Như vậy, dựa trên các quy định của pháp luật ta có thể hiểu người bào chữa như sau: “Người bào chữa là người được cơ quan tiến hành tố tụng chứng nhận, tham gia tố tụng với mục đích làm sáng tỏ những tình tiết liên quan đến sự thật của vụ án nhằm chứng minh về sự vô tội hay giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ”.
2. Phân loại người bào chữa
Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 BLTTHS năm 2003 thì người bào chữa có thể là luật sư; người thay mặt hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; Bào chữa viên nhân dân.
- Luật sư: Là người đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật tham gia tố tụng theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức đó theo quy định của pháp luật. Hoạt động bào chữa của Luật sư là hoạt động có tính chất chuyên nghiệp (1), đây là dội ngũ chính tham gia bào chữa trong TTHS. Hiện nay, Luật luật sư đang điều chỉnh các quan hệ pháp luật cụ thể về luật sư, theo quy định tại Điều 10 và Điều 11 thì luật sư phải đáp ứng được các yêu cầu: “Là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khoẻ bảo đảm”, Khi muốn hành nghề luật sư thì phải “có Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư”.
- Người thay mặt hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo: Người thay mặt hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là cha mẹ hay người giám hộ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa thành niên hay người có nhược điểm về thể chất hay tâm thần. Ngoài ra theo luật hôn nhân và gia đình năm 2000 còn có các chủ thể khác là thay mặt hợp pháp như: bố nuôi, mẹ nuôi, người đỡ đầu, anh, chị em ruột và những người khác theo quy định của pháp luật đối với những trường hợp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hay tinh thần. Người địa diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một chủ thể tư pháp có tư cách của người bào chữa trong tố tụng hình sự.
- Bào chữa viên nhân dân: Bào chữa viên nhân dân có thể là người được Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của mặt trận tổ quốc cử để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người của tổ chức mình. Về mặt pháp lý, bào chữa viên nhân dân và Người thay mặt hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một chủ thể tư pháp có tư cách của người bào chữa trong tố tụng hình sự. Nhưng trong thực tiễn tố tụng hình sự ở Việt Nam, việc xem xét thủ tục chứng nhận tư cách người bào chữa, các nguyên tắc, phạm vi tham gia tố tụng lại chưa được hướng dẫn và quy định chi tiết, dẫn đến các cơ quan tiến hành tố tụng các cấp gặp rất nhiều khó khăn trong việc đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ của họ. Đồng thời, với chất lượng hành nghề của phần đông Bào chữa viên nhân dân không cao, gặp rất nhiều cản ngại, vướng mắc do những hạn hẹp về kiến thức pháp luật, lại không được đào tạo chuyên sâu về các kỹ năng hành nghề trong tranh tụng vụ án hình sự, không được tập sự trong các tổ chức hành nghề luật sư chuyên nghiệp nên trông thực tiễn đây là loại chủ thể rất ít khi tham gia bào chữa trong TTHS.
II. Địa vị pháp lí của người bào chữa theo pháp luật hiện hành.
1. Quyền của người bào chữa
Hiện nay, BLTTHS năm 2003 đã quy định quyền của người bảo chữa một cách khá chi tiết và chặt chẽ so với các quy định của pháp luật trước đây. Điều này đã khiến cho quyền lợi của người bào chữa được mở rộng và đảm bảo tốt hơn trong quá trình tố tụng hình sự. Khoản 2 điều 58 BLTTHS 2003 đã quy định một cách khá chi tiết các quyền mà người bào chữa khi tham gia tố tụng có được:
“a) Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;
b)Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can;
c) Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;
d) Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hay từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác;
đ) Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
e) Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam;
g) Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;
h) Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa;
i) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
k) Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hay người có nhược điểm về tâm thần hay thể chất quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 của Bộ luật này.”
Như vậy, Khi tham gia tố tụng hình sự người bào chữa có những quyền sau:
Thứ nhất, Người bào chữa có quyền có mặt khi lấy lấy khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác và có quyền xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa. Quy định này nhằm tạo điều kiện cho người bào chữa...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top