giangnam_892003

New Member

Download miễn phí Cơ sở khoa học và kinh nghiệm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước





 Có thể kết luận rằng một bộ phận DNNN là phù hợp với định hướng XHCN với mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng và văn minh mà đảng và nhà nước ta đã đặt ra yêu cầu xây dựng nền kinh tế nước ta hiện nay. CPH là tạo thêm chất lượng, nội dung mới cho DNNN được CPH, hoàn toàn không có ảnh hưởng định hướng XHCN của nền kinh tế đa thành phần ở nước ta. Công ty cổ phần là sản phẩm của nền kinh tế cạnh tranh, do yêu cầu tập trung và phân tán tư bản để phcj vụ phát triển kinh doanh quy mô lớn, nó là “vật trung tín” là sản phẩm trí tuệ sáng tạo của loà người trong quá trình tiến hoá và phát triển kinh tế, không phải là sản phẩm của một hệ, một màu sắc chính trị nào. công ty cổ phần là một công cụ kinh doanh đảm bảo hứa hen hiệu quả cao và phu hợp với cơ chế thị trường cạnh tranh nhằm giảm gánh nặng đầu tư bao cấp, tập trung vốn vào ngành trọng điểm.

 Chuyển nền kinh tế sở hữu thuần tuý đơn thuần sang nền kinh tế đa thành phần, sở hữu hổn hợp, thì CPH là một trong những hình thức tương đối phù hợ với xu thế phát triển kinh tế của nước ta trong tương lai. Có thể nói quá trình đổi mới DN theo hướng thị trường ở nước ta được bắt đầu từ rất sớm, khởi đầu bằng nghị quyết 25/Cpcủa chính phủ năm 1981.

 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ketnooi -


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ketnooi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


rả dần. Việc tạo điều kiện cho người làm công tham gia sở hữu nhằm nhiều mục đích, trong đó có việc ngăn cản người làm công chống đối quá trình cổ phần hoá.
Thứ hai, dù dưới hình thức nào thì nhà nước vẩn phải nắm giữ một số vốn đủ sức điều tiết, khống chế nền kinh tế củng như chính trị và mục tiêu khác. kinh nghiệm trên thế giới chưa có một nước nào tư nhân hoá hoàn toàn mặc dù chế độ chính trị phục vụ tư bản tư nhân. nước ta, nhà nước cần nắm giữ tỷ lệ khống chế định hướng nền kinh tế nhiều thành phần theo quỷ đạo XHCN. Khuyến khích thành lập các xí nghiệpliên doanh với nước ngoài dưới hình thức công ty cổ phần. để khuyến khích nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, cần giảm bớt thủ tục phiền hà tropng việc xét duyệt, thẩm định dự án và triển khai dự án liên doanh. trình độ xã hội hoá thấp do đó việc biến các công ty vừa và nhỏ thành các công ty cổ phần là quá trình từ từ, thận trọng tránh sự chủ quan nóng vội như phong trào hợp tác hoá trước kia. Bởi vì thực trạng DN vừa và nhỏ ở nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế.
Các DN nhỏ thiếu vốn 47,9%, thiếu thị trường tiêu thụ 44,4% tương tự với các DN vừa là 69,5% và 27,1%.
Trình độ kỷ thuật công nghệ rất thấp gần 50% số DN nhỏ ở nông thôn chỉ sử dụng công cụ cầm tay, 15,5% sử dụng công cụ nửa cơ khí, hơn 35,5% sử dụng công cụ về điện.
Trình độ cán bộ quản lý DN nhỏ có bằng cấp chưa nhiều. ở Hải Hưng có tới 69,5%chủ DN có kiến thức quản lý bằng kinh nghiệm, 13,9% chủ DN không biết về luật công ty và luật DN tư nhân, 61,1% chủ DN không biết về luật đầu tư, 11,1% chủ DN không biết về luật thuế, 50% không biết về luật môi trường… Hầu hết các DN nhỏ ít được nhà nước hổ trợ đào tạo tay nghề và kỉ năng quản lý DN. do vậy trình độ và kỷ thuật tay nghề thấp so với mặt bằng xã hội. Thực tế nêu trên cho phép ta khẳng định, con đường hình thành công ty cổ phần bằng cách liên kết các DN vừa và nhỏ phải có thời gian, phải dựa trên sự phát triển chín muồi của các điều kiện kinh tế – xã hội, pháp luật khác…Trước mắt các DN vừa và nhỏ có thể làm vệ tinh cho các DN lớn dưới các hình thức cung cấp nguyên liệu gia công chi tiết… để dần hình thành các mối liên hệ kinh tế chặt chẻ hơn tạo điều kiện cho việc hình thành công ty cổ phần.
Trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường mở cửa với nước ngoài trong mối quan hệ bình đẳng với các nưóc trên thế giới, nên chăng từng bước chúng ta thành lập các tập đoàn kinh tế mạng xuyên quốc gia mà nòng cốt là các công ty cổ phần lớn có chi nhánh trên toàn lảnh thổ, vừa sản xuất vừa xuất khẩu để cạnh tranh với các tập đoàn bên ngoài và dần dần mở rộng phạm vi sản xuất kinh doanh ra nước ngoài. để làm được điều này cần có sự giúp đỡ tích cực của nhà nước về vốn kỷ thuật cán bộ, môi trường pháp lý, thông tin.
Chuyển nền kinh tế sở hữu thuần tuý đơn nhất sang nền kinh tế đa thành phần sở hữu hỗn hợp thì công ty cổ phần là một trong những hình thức tương đói phù hợpvới xu thế phát triển về kinh tế của nước ta trong tương lai.
CPH con đường tất yếu nhưng không êm ả.
Nền kinh tế nhiều thành phần bản chất đã chứa nhiều yếu tố cạnh tranh, mà trong cuộc cạnh tranh này DNNN luôn ở vào thế bất lợi đó là bộ máy cồng kềnh cơ chế quản lý lắm tầng nấc xung quanh, tuy nhiên vẩn còn nhiều lợi thế, vốn nhà nước để lại thấp, mối quan hệ giữa con người con người còn để lại bản chất của chế độ XHCN, không có bóc lột, không có đánh đập cúp lương. Như chúng ta đã thấy trong các liên doanh với nước ngoài bình đẳng trong lao động .
Các thành phần kinh tế được phát huy, tất yếu dẫn đến hình thức đa dạng hoá sở hữu; Nếu để cho nó tự phát điều tiết thì đến một lúc nào đó các DN XHCN sẻ tự “đào thải” bởi sự vươn lên của các thành phần kinh tế chiến lỉnh thị trường như là quy luật tất yếu của nền sản xuất hành hoá. Cho đến nay gần 6.000 DNNN phần lớn hoạt động trong tình trạng thiếu vốn, thiếu thị trường chưa tìm được lối thoát. sự nhận biết những chuyển đổi khách quancủa các DN ngay từ năm 1992 chính phủ đã CPH thí điểm ở 10 DN và năm 1996 chính phủ đã có nghị định 28/cp về chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần. đây là chiến lược lớn để huy động vốn, chuyển dần quyền sở hữu cho người lao động góp phần chống tham nhủng lảng phí, tạo nên cách quản lý sáng tạo nhanh nhạy và hiệu quả trong cơ chế thị trường. Nó không phải là tư nhân hoá như đang tiến hành ở các nước đông âu mà là đảm bảo quyền làm chủ thực sự của người lao động dưới hình thức góp cổ phần mua cổ phiếu và được nhà nước để lại một phần trong các quỷ làm vốn cổ phần. Đến nay mới có 10 DN chuyển thành công ty cổ phần. Về hiệu quả không ai nghi ngờ, thu nhập của người lao động tăng lên rõ rệt, tài sản được bổ sung, ai củng quan tâm đến sản xuất. ở khách sạn Sài Gòn từ sau ngày công ty cổ phần ra đời đời sống của người lao động tăng gấp 3-4 lần trước đây, bình quân lương tư 1,7-3,5 triệu đồng/tháng; của Gemadep bình quân 2,4 triệu đồng/tháng, cổ phiếu giá trị thực gấp 2,3 lần so với giá trị ban đầu. Cái lợi của CPH ai củng thấy song bước tiến hành của nó còn quá chậm chạp, thậm chí có nơi còn chưa “mặn mà” với chủ trương lần này ngay cả trong ngành du lịch bởi những nguyên nhân sau:
Người lao động quá quen với lối làm ăn củ, bằng lòng với mức thu nhập 300.000- 500.000/tháng mà không thấy là sự thay đổi có tính chất cách mạng trong quan hệ sản xuất. Lối suy nghĩ củ kỉ nơm nớp lo thất nghiệp, không có việc làm đã hằn sâu trong suy nghĩ của người lao động. Cộng thêm sự thiếu hiểu biết về chính sách của Đảng và nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần vẩn giã vững định hướng XHCN, giữ tính ổn định trong DN.
Phần lớn cán bộ lảnh đạo ở các DN đã không hiểu hết sự chuyển đổi nhân đạo của chính sách CPH lại “ôm lấy” cách quản lý không còn thích hợp trong cơ chế thị trường, vì ở đó người giám đốc còn đẩy rẩy quyền hành và bổng lộc, nhưng lại sẳn sàng “phủi bụi” khi làm ăn thua lỗ, dẩn đến phá sản công ty, nên không nhiều giám đốc tiếp nhận một cách tự giác tháo gở những khó khăn chưa nhận thức nỗi ban đầu.
Phải nhìn thẳng vào một sự thật một số chế độ chưa được ban hành đầy đủ, đồng bộ, các văn bản hướng dẩn về chế độ ưu đãi về thuế sau khi chuyển sang công ty cổ phần. Có công ty khi thực hiện thì khó có thể thuyết phục cơ quan thuế và các chế độ miển giảm các loại thuế vì chưa có thông tư hướng dẩn. Hay trong đánh giá tài sản chưa có tiêu thức chuẩn và mức độ của lợi thế DN. nếu đánh giá cao thì không ai mua, nếu đánh giá thấp thì nhà nước thiệt, xã hội xô vào mua, không còn cổ phiếu để bán cho người lao động.
Ngành du lịch của chúng ta chỉ mới quản lý đến các DNNN trong toàn ngành và sẻ tiến hành ở một vài DN trực thuộc tổng cục như các công ty DL Đà Nẵng, Hải Phòng, OSC, ít ra củng có được kinh nghiệm của khách sạn Sài Gòn. Song bước triển khai củng không đơn giản. nếu ...

 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Dịch tễ học cơ sở và các bệnh phổ biến Sách đào tạo BS chuyên khoa định hướng y học dự phòng Y dược 0
D Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học sinh thông qua dạy học lĩnh vực khoa học tự nhiên ở trường trung học cơ sở Luận văn Sư phạm 0
D Skkn một phương án dạy học tích vô hướng của hai vectơ trên cơ sở phân tích khoa học luận tri thức Luận văn Sư phạm 0
F Nghiên cứu cơ sở khoa học phục vụ quy hoạch bảo vệ môi trường thành phố tam kỳ tỉnh Quảng Nam Khoa học Tự nhiên 0
D Nghiên cứu đề xuất các phương án có cơ sở khoa học và khả thi quản lý chất thải rắn Quận 3, thành ph Khoa học Tự nhiên 0
B Cơ sở khoa học của quy hoạch sử dụng đất đai huyện Lộc Bình - Tỉnh Lạng Sơn thời kỳ 2000 - 2010 Công nghệ thông tin 0
D Cơ sở khoa học hình thành các mục tiêu xã hội trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 - 2010 Luận văn Kinh tế 0
N Phân tích cơ sở khoa học của việc thành lập, phân tích và điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế Luận văn Kinh tế 0
D Nấm ăn - Cơ sở khoa học và công nghệ nuôi trồng Nông Lâm Thủy sản 0
D Phân tích cơ sở khoa học của đặc điểm tâm lý( tính khí cá nhân) và chứng minh hiệu quả của việc ứng Luận văn Kinh tế 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top