angle_blue106

New Member

Download miễn phí Đề tài Chính sách chất lượng của Công ty may Thăng Long là cung cấp các sản phẩm tốt nhất thông qua việc liên tục đổi mới hệ thống quản lý chất lượng nhằm không ngừng nâng cao sự thoả mãn của các bên có liên quan





Cấp công ty bao gồm: Tổng giám đốc công ty, chịu trách nhiệm quản lý và chỉ đạo trực tiếp dưới sự hỗ trợ của các Phó tổng giám đốc; Các phòng ban chức năng và các XN thành viên của công ty (đứng đầu là các trưởng phòng và giám đốc XN) chịu sự chỉ đạo trực tiếp từ Ban giám đốc. Mỗi phòng có một chức năng, nhiệm vụ vai trò riêng:
Tổng giám đốc: Tổng giám đốc của Công ty may Thăng Long là ông Lê Văn Hồng (từ tháng 7/1988 đén nay). Tổng giám đốc có nhiệm vụ chịu trách nhiệm chung trước Tổng công ty về tình hình sản xuất kinh doanh của đơn vị mình.
Phó tổng giám đốc điều hành kĩ thuật: có chức năng tham mưu giúp việc cho Tổng giám đốc, chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc về việc thiết lập mỗi quan hệ với các bạn hàng, với các cơ quan quản lý hoạt động xuất nhập khẩu, tổ chức nghiên cứu mẫu hàng và các loại máy móc kĩ thuật, triển khai giấy phép xuất nhập khẩu như: tham mưu kí kết hợp đồng gia công, xin giấy phép xuất nhập khẩu, tiếp nhận nguyên phụ liệu, mở tờ khai hải quan, giao cho khách hàng
 
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ch xuất sắc, so với kế hoạch đạt 102%. Kết quả tốt đẹp 2 năm đầu tạo đà cho năm 1960, năm bản lề cho việc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất trên miền Bắc. Kế hoạch Bộ giao tăng 45% so với 1959, nhưng công ty vẫn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đạt tỉ lệ 116,16% chỉ tiêu kế hoạch.
Thắng lợi ban đầu này có ý nghĩa vô cùng quan trọng nó cổ vũ động viên mạnh mẽ toàn thể cán bộ công nhân viên của công ty ra sức hăng say lao động, nghiên cứu tìm tòi, sáng tạo trong sản xuất.
3. Các giai đoạn phát triển của công ty may Thăng Long:
Từ 1969 đến 1975: Được bộ chủ quản cho phép, tháng 07/1961 công ty chuyển địa điểm làm việc về số 250 - Minh Khai - Hà Nội, là trụ sở chính của công ty ngày nay. Địa điểm mới có nhiều thuận lợi, mặt bằng rộng rãi, tổ chức sản xuất ổn định. Các bộ phận phân tán trước nay thống nhất thành một mỗi tạo thành dây chuyền sản xuất khép kín hoàn chỉnh, từ khâu nguyên liệu, cắt may, là, đóng gói. Ngày 31/08/1965, Công ty may mặc xuất khẩu đổi tên thành Xí nghiệp may mặc xuất khẩu. Mặc dù gặp nhiều khó khăn do chiến tranh và hậu quả chiến tranh, xí nghiệp (XN) vẫn liên tục đầu tư thêm nhiều máy móc thiết bị mới để luôn nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm may mặc xuất khẩu của công ty. XN đã thay thế máy đạp chân bằng máy may công nghiệp, trang bị thêm máy móc chuyên dùng như máy thùa, máy đính cúc, máy cắt gọt, máy dùi dấu…Mặt bằng sản xuất được mở rộng, dây chuyền sản xuất đã lên tới 27 người, năng suất áo sơ mi đạt 9 áo/người/ca. Vì thế tình hình sản xuất những năm 1973 - 1975 đã có những bước tiến bộ rõ rệt. Tuy nhiên, do có nhiều khó khăn không thể khắc phục dược năm 1972 XN chỉ đạt 67,7% chỉ tiêu kế hoạch với 2.084.643 sản phẩm.
Năm 1973: giá trị tổng sản lượng đạt 5.696.900 đồng, với tỷ lệ 100,77%, vượt hơn năm 1972 là 166,7%.
Năm 1974: tổng sản lượng đạt 5.005.608 sản phẩm, giá trị tổng sản lượng 6.596.036 đồng, đạt 102,28%.
Năm 1975: tổng sản lượng lên tới 6.476.926 sản phẩm, đạt 104,36%. Giá trị tổng sản lượng 7.725.958 đồng, đạt 102,27% so với kế hoạch.
Từ năm 1975 đến 1980: Thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp chống Mĩ cứu nước đã mở ra cho dân tộc ta một thời kì mới, thời kì cả nước thống nhất, đi lên CNXH. Trong thời kì này XN đã tập trung vào một số hoạt động chính sau: Xây dựng nội quy XN và triển khai thực hiện là một đơn vị thí điểm của toàn ngành may. Trang bị thêm 84 máy may bằng và 36 máy 2 kim 5 chỉ thay cho 60 máy cũ, 1 máy ép có công suất lớn. Nghiên cứu chế tạo 500 chi tiết gá lắp làm cữ, gá cho hàng sơ mi, đại tu máy phát điện 100kw bảo đảm đủ điều kiện sản xuất và chiếu sáng các phân xưởng làm việc. Nghiên cứu cải tiến dây chuyền áo sơ mi, có sự cộng tác giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô, nghiên cứu 17 mặt hàng mới, được đưa vào sản xuất 10 loại. Ngoài ra XN còn thành lập Hội đống sáng kiến khuyến khích công nhân phát huy sáng tạo cải tiến kĩ thuật và đã có 209 sáng kiến. Những thành tựu trên đã góp phần hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ 2.
Năm 1979, XN được Bộ quyết định đổi tên mới là Xí nghiệp may Thăng Long với ý nghĩa cao đẹp nghìn năm văn hiến cảu Thủ đô, cũng như khát vọng bay cao bay xa của XN trong tương lai. Sản phẩm của XN, đặc biệt là áo sơ mi xuất khẩu đã được xuất đi nhiều nước, chủ yếu là Liên Xô cũ và các nước Đông Âu.
Gai đoạn từ 1980 – 1990: Trong thời kì này XN có sự chuyển hướng mạnh mẽ từ sản xuất hàng mậu dịch xuất khẩu sang sản xuất hàng gia công xuất khẩu. Xác định rõ những khó khăn ban đầu, phái đối tác đòi hỏi kĩ thuật may gia công khắt khe, giao hàng đúng, đủ sản phẩm theo hợp đồng. Đề cao phong cách lao động công nghiệp…Sản phẩm của XN xuất khẩu sang các nước như Liên Xô, Đức, Pháp, Thuỵ Điển.
Đại hội Đảng lần thứ 6 (12/1986) đề ra 3mục tiêu kinh tế chủ yếu: Lương thực - Thực phẩm - Hàng tiêu dùng và Hàng xuất khẩu. Phấn đấu thực hiện mục tiêu của Đại hội, Xí nghiệp may Thăng Long cũng như những XN trong ngành may gặp rất nhiều khó khăn về biến động giá cả, thiếu thốn nguyên liệu… Khắc phục khó khăn trên, XN đã chủ động tạo nguồn nguyên liệu qua con đường liên kết với UNIMEX, nhà máy dệt 8-3 và nhiều đơn vị khác. Khi thiếu nguyên liệu làm hàng xuất khẩu XN nhanh chóng chuyển sang làm hàng nội địa.
Năm 1986 sản lượng giao nộp của XN đạt 109,12%, sản phẩm xuất khẩu đạt 102,73%.
Năm 1987 tổng sản phẩm giao nộp đạt 108,87%, hàng xuất khẩu đạt 101,77%.
Giai đoạn từ năm 1990 đến nay: Những năm đầu thập kỉ 90, cơ chế bao cấp không còn, doanh nghiệp bước vào cơ chế thị trường. Bên cạnh đó tình hình thế giới có những biến động lớn tác động mạnh mẽ đến nước ta. Liên Xô tan rã, các nước XHCN như Đông Âu, Đông Đức sụp đổ đã làm cho thị trường của XN có nhiều biến động lớn. Đứng trước khó khăn đó Đảng uỷ và Ban giám đốc đã đi đến quyết định: Phải chuyển hướng sản xuất và tìm thị trường mới phải đáp ứng bằng chính chất lượng của mình. XN đã quyết định đầu tư hơn 20 tỷ đồng thay thế thiết bị cũ trang bị thêm một số máy móc hiện đại, nâng cao trình độ công nghệ đủ khả năng sản xuất mặt hàng mới cao cấp, đồng thời phải tổ chức sắp xếp lại sản xuất, cải tiến các mặt quản lý cho phù hợp với yêu cầu mới, đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên, XN không ngừng đẩy mạnh tiếp thị, chủ động tìm kiếm khách hàng, tháo gỡ những khó khăn về tiêu thụ cũng như mở rộng chủng loại mặt hàng.
Ngày 08/02/1991, XN là đơn vị đầu tiên trong ngành may được nhà nước cấp giấy phép xuất khẩu trực tiếp, tạo thế chủ động, giảm phiền hà, tiết kiệm chi phí. Tiếp đến, ngày 04/03/1992 Bộ công nghiệp nhẹ đã kí quyết định chuyển Xí nghiệp may Thăng Long thành Công ty may Thăng Lông, tên giao dịch là Thang Long Garment Company (Thaloga), với nhiều nhiệm vụ sản xuất kinh doanh: Gia công hàng may mặc xuất khẩu, hàng nội địa, gia công hàng thêu mài. Hàng năm, công ty sản xuất từ 8 triệu đến 9 triệu sản phẩm, trong đó hàng xuất khẩu chiếm khoảng 95%, sản phẩm gia công chiếm từ 80% đến 90%. Năm 1993 công ty thành lập Trung tâm thương mại và giới thiệu sản phẩm tại 39 - Ngô Quyền - Hà Nội. Năm 1995, công ty thực hiện cách kinh doanh “mua đứt bán đoạn” đạt 21,200 tỷ đồng, chiếm 43,26% doanh thu. Trong đó giá trị xuất khẩu FOB đạt 13,702 tỷ đồng chiếm 28% doanh thu.
Năm 1996 doanh thu đạt 101% so với kế hoạch.
Năm 1997 công ty vượt kế hoạch 108% với tổng doanh thu 218.306 triệu USD và đảm bảo thu nhập bình quân 735.745 đồng/người/tháng.
Cho đến nay sau 45 năm phát triển, Công ty may Thăng Long đã có thị trường ổn định, rộng lớn cả trong nước và trên thế giới. Trong quá trình sản xuất, tiêu thụ đẩm bảo có lãi và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với nhà nước. Thành tích đó đã được ghi nhận qua những tấm huân, huy chương cao quý:
1 Huân chương Độc lập hạng nhì (2002).
1 Huân chương Độc lập hạng ba (1997).
1 Huân chương Lao động hạng nhất (1988).
1 Huân chương Lao động hạng nhì (1993).
4 Huân chương Lao động hạng ba (1978,...
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
K Kinh tế học về chảy máu chất xám lý thuyết, mô hình và một số hàm ý chính sách cho Việt Nam Luận văn Sư phạm 2
E Nâng cao chất lượng tín dụng đối với hộ nghèo tại Ngân hàng Chính sách xã hội - Chi nhánh huyện Tân Luận văn Kinh tế 0
T Chính sách phát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao ở thành phố Hà Nội Luận văn Kinh tế 0
C Nâng cao chất lượng hoạt động cho vay hộ nghèo tại ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Phú Thọ Luận văn Kinh tế 0
C Thực hiện chính sách đãi ngộ vật chất đối với người có công với cách mạng ở huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Luận văn Kinh tế 2
I Chính sách hỗ trợ tài chính cho việc áp dụng công nghệ sạch trong xử lý chất thải chăn nuôi nhằm giả Kinh tế quốc tế 0
L Đổi mới chính sách đào tạo để nâng cao chất lượng nhân lực khoa học công nghệ của Nhà máy X51 Kinh tế quốc tế 0
N Nghiên cứu một số giải pháp về chính sách ứng dụng công nghệ "Chất chữa cháy sạch" nhằm bảo vệ tầng Kinh tế quốc tế 0
N Xây dựng chính sách ứng dụng công nghệ thông tin nhằm nâng cao chất lượng quản lý trong các trường t Kinh tế quốc tế 0
M Xây dựng chính sách thu hút nhân lực khoa học và công nghệ chất lượng cao trong điều kiện tự chủ, tự Kinh tế quốc tế 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top