onestarvn

New Member
Link tải miễn phí Luận văn: Chất thơ trong tiểu thuyết viết về chiến tranh thời kỳ đổi mới qua 3 tác phẩm: Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Khúc bi tráng cuối cùng (Chu Lai), Tàn đen đốm đỏ (Phạm Ngọc Tiến) : Luận văn ThS. Văn học: 60 22 01 21
Nhà xuất bản: ĐHKHXH&NV
Ngày: 2014
Miêu tả: 91 tr. + CD-ROM + tóm tắt
Luận văn ThS. Văn học Việt Nam -- Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013
Khi tiến hành nghiên cứu đề tài này, chúng tui hướng tới những mục tiêu sau: - Thứ nhất, trong khi nghiên cứu vấn đề chất thơ trong tiểu thuyết chiến tranh thời kỳ đổi mới, chúng tui muốn làm nổi bật không khí của thời đại lịch sử đã đi qua: Vừa oai hùng, khốc liệt nhưng hết sức lãng mạn.- Thứ hai, chúng tui muốn phát hiện và chỉ rõ nội dung, hình thức biểu hiện của chất thơ trong ba tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh trên các phương diện cụ thể.- Thứ ba, chúng tui muốn chứng minh sự thể hiện chất thơ là nét đặc trưng nghệ thuật cách tân trong thi pháp nghệ thuật tiểu thuyết Việt Nam sau Đổi mới.
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................... 6
1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ........................................................................ 6
2.LỊCH SỬ VẤN ĐỀ................................................................................ 7
3. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU....................................... 15
4. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA LUẬN VĂN ............................................... 16
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU..................................................... 16
6. CẤU TRÚC LUẬN VĂN................................................................... 17
CHƢƠNG 1: CHẤT THƠ VÀ CHẤT THƠ TRONG VĂN XUÔI ..... 18
1.1. Chất thơ và vai trò của chất thơ trong văn xuôi ......................... 18
1.1.1. Chất thơ ....................................................................................... 18
1.1.2. Phân biệt chất thơ, chất trữ tình ............................................... 21
1.2. Vai trò của chất thơ trong văn xuôi ............................................. 22
1.3. Chất thơ trong tiểu thuyết............................................................. 23
1.3.1. Từ những tiền đề lý luận của tiểu thuyết................................... 23
1.3.2. Đến biểu hiện của chất thơ trong tiểu thuyết............................ 26
1.3.2.1. Biểu hiện về nội dung................................................................ 26
1.3.2.2. Biểu hiện về hình thức nghệ thuật........................................... 29
CHƢƠNG 2: BỨC TRANH HIỆN THỰC ĐẬM CHẤT THƠ TRONG
NỖI BUỒN CHIẾN TRANH, KHÚC BI TRÁNG CUỐI CÙNG, TÀN
ĐEN ĐỐM ĐỎ ........................................................................................... 31
2.1. Bức tranh thiên nhiên trữ tình, thơ mộng ................................... 31
2.1.1. Vẻ đẹp huyền bí, hoang dại của núi rừng................................. 33
2.1.2. Vẻ đẹp thơ mộng của Hà thành ................................................. 35
2.2. Chất thơ từ những giấc mơ ........................................................... 38
2.2.1. Quan niệm về giấc mơ ................................................................ 38
2.2.2. Chất thơ biểu hiện từ giấc mơ ................................................... 40
2.3. Chất thơ từ vẻ đẹp của ngƣời phụ nữ .......................................... 47
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi5
2.3.1. Vẻ đẹp trong trắng tinh khôi ...................................................... 48
2.3.2. Tình yêu trinh nguyên, nồng cháy............................................. 49
2.4. Chất thơ từ vẻ đẹp của ngƣời lính................................................ 53
2.4.1. Tình yêu ngƣời lính..................................................................... 53
2.4.2. Tình đồng đội............................................................................... 58
CHƢƠNG 3: NHỮNG PHƢƠNG THỨC BIỂU HIỆN CỦA CHẤT
THƠ QUA NỖI BUỒN CHIẾN TRANH, KHÚC BI TRÁNG CUỐI
CÙNG, TÀN ĐEN ĐỐM ĐỎ..................................................................... 63
3.1. Ngôn ngữ giàu hình ảnh và nhịp điệu........................................... 63
3.1.1. Ngôn ngữ giàu hình ảnh .............................................................. 63
3.1.2. Ngôn ngữ giàu nhạc tính ............................................................. 70
3.2. Giọng điệu trữ tình ......................................................................... 75
3.2.1. Vài nét về giọng điệu.................................................................... 75
3.2.2. Giọng điệu trữ tình ...................................................................... 76
KẾT LUẬN ................................................................................................ 836
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Suốt ba mƣơi năm kháng chiến chống ngoại xâm, tiểu thuyết viết về
chiến tranh đã góp phần quan trọng vào việc hình thành diện mạo nền văn
học dân tộc. Sau 1975, trên tinh thần đổi mới tƣ duy nghệ thuật, tiểu thuyết
về chiến tranh vẫn tiếp tục phát triển và góp phần không nhỏ vào sự đổi
mới thể loại tiểu thuyết ở Việt Nam.
Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Khúc bi tráng cuối cùng (Chu Lai),
Tàn đen đốm đỏ (Phạm Ngọc Tiến) thực sự là ba tác phẩm mang đến cho
ngƣời đọc cái nhìn mới về hiện thực chiến tranh và cuộc sống của ngƣời
lính thời hậu chiến, bổ khuyết những khoảng trống mà tiểu thuyết viết về
chiến tranh giai đoạn trƣớc 1975 chƣa có điều kiện khám phá. Đây cũng
chính là một đóng góp quan trọng của ba tác giả kể trên trong hành trình
cách tân nghệ thuật tiểu thuyết.
Ngoài những cách tân trên một số phƣơng diện thì theo ngƣời viết vẻ
đẹp của chất thơ là một trong nét hấp dẫn, góp phần tạo nên thành công của
ba cuốn tiểu thuyết nêu trên. Theo khảo sát thống kê, chất thơ trong tiểu
thuyết đặc biệt tiểu thuyết viết về chiến tranh Việt Nam chƣa có nhiều công
trình nghiên cứu. Hầu hết, các bài viết chỉ dừng lại ở một số bài viết riêng
lẻ nói về tính chân thật, điểm mới trong đề tài chiến tranh sau chiến tranh.
Với lý do đó, ngƣời viết đã chọn Chất thơ trong tiểu thuyết viết về chiến
tranh thời kỳ đổi mới qua ba tác phẩm: Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh),
Khúc bi tráng cuối cùng (Chu Lai), Tàn đen đốm đỏ (Phạm Ngọc Tiến) làm
đề tài nghiên cứu cho luận văn.
. Với mong muốn khai thác tìm hiểu về chất thơ qua các vấn đề tiêu biểu
và đóng góp thêm cái nhìn mới sâu sắc hơn, ngƣời viết đã chọn Chất thơ
trong tiểu thuyết viết về chiến tranh thời kỳ đổi mới qua ba tác phẩm nói
trên làm đề tài nghiên cứu luận văn.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi7
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Nghiên cứu chất thơ trong các tiểu thuyết về đề tài chiến tranh qua ba
tác phẩm , ngƣời viết nhận thấy cần có khái lƣợc lịch sử nghiên cứu bài
viết liên quan tới các tác phẩm này.
Nỗi buồn chiến tranh là một trong những cuốn tiểu thuyết tiêu biểu của
văn học Việt Nam đƣơng đại. Sau khi đƣợc trao Giải thƣởng của Hội nhà
văn (1991), cuốn tiểu thuyết này đã gây nên một làn sóng dƣ luận trong
giới nghiên cứu phê bình và bạn đọc. Có khá nhiều xu hƣớng bình luận
nghiên cứu khác nhau nhƣ: phê phán, phủ nhận, đánh giá dè dặt. Nhƣng
hầu hết xu hƣớng đều đánh giá cao cuốn tiểu thuyết trên nhiều phƣơng
diện, đƣợc coi là thành tựu xuất sắc của văn học thời kỳ đổi mới.
Trong bài viết: Nghĩ gì khi đọc tiểu thuyết Thân phận của tình yêu của
Đỗ Văn Khang ở Báo Văn Nghệ số 43 năm 1991 nhận xét: “Những đổi
mới nghệ thuật của Bảo Ninh nhƣ: cấu trúc trần thuật kép, tính chất đa
thanh, kỹ thuật dòng ý thức chỉ là việc làm thuần túy để đánh lừa bạn đọc”.
Trong bài Từ đâu đến Nỗi buồn chiến tranh của Trần Duy Châu (Tạp chí
Cộng sản số 10 năm 1994) nhấn mạnh: “Bảo Ninh đã tạo nên hình ảnh đảo
ngƣợc của hiện thực, chuyển đổi các giá trị, biến trắng thành đen, thay khúc
ca khải hoàn của dân tộc thành tiếng hát bi thƣơng ai điếu cho những kẻ lạc
loài”. [25, tr. 25].
Một xu hƣớng khác nữa là sự cổ vũ động viên nhƣng e dè và đều chung
câu hỏi: Liệu rằng cuốn tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh có bị dồn nén quá
nhiều chất bi không? Nguyễn Phan Hách trong cuộc thảo luận về tiểu
thuyết Thân phận của tình yêu (Báo Văn nghệ số 37 năm 1991) đã viết:
“Lùi ra xa, đứng cao hơn một chút thì thấy có thể thông cảm đƣợc với tác
phẩm này. tui chƣa hẳn tán thành hoàn toàn về nội dung, nhƣng cái đẹp,
cái tuyệt kĩ, văn chƣơng là văn chƣơng của cuốn sách đã át đi đƣợc những
e ngại khác...” [16, tr. 4]8
Cũng trong cuộc thảo luận này, Vũ Quần Phƣơng nhận xét: “Nếu cái
đáng khen trong cuốn sách là chân thực trong tâm trạng, thì chỗ cần lƣu ý
tác giả cũng là tính chân thực cần có, trong khi dựng lại bối cảnh hậu
phƣơng miền Bắc và những trận đánh trả máy bay Mỹ. Bảo Ninh đã đánh
mất cái hào khí rất đẹp của năm tháng ấy, có thể nó ấu trĩ, nhƣng nó có cảm
giác tác giả có những điều không hài lòng nên có cái nhìn thiên kiến, có
chỗ cực đoan. Đọc những chi tiết khủng khiếp, đay nghiến, thấy tác giả ác,
ta chƣa thấy đƣợc nhân tố làm nên chiến thắng ở đây” [16, tr. 4]. Nhìn
chung, các ý kiến của các cây bút nhìn chiến tranh quá gần, thậm chí cảnh
giác với nguy cơ chiến tranh, e sợ tác giả rơi vào tình trạng giải thiêng cuộc
chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc.
Xu hƣớng đánh giá cao đóng góp của Bảo Ninh trong sự phát triển của
tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, tiêu biểu có Nguyên Ngọc. Trong cuộc thảo
luận về tiểu thuyết Thân phận tình yêu (Báo Văn nghệ số 37 năm 1991),
ông khẳng định: “Cuốn sách Thân phận của tình yêu của Bảo Ninh là sự
nghiền ngẫm về chiến thắng, ý nghĩa và giá trị to lớn và dữ dội của chiến
thắng. Nó chỉ cho chúng ta biết rằng, chúng ta đã làm nên chiến công vĩ đại
thắng Mỹ với cái giá ghê gớm đến chừng nào. Một đặc sắc nữa của cuốn
sách này là tác giả viết với tƣ cách hoàn toàn của ngƣời trong cuộc, không
đứng ngoài, đứng trên nhìn ngắm mà đứng trong, thậm chí ở tận đáy của
cuộc chiến tranh. Anh viết về cuộc chiến tranh “của anh” gần nhƣ bằng tất
cả máu của anh. Về mặt nghệ thuật, đó là thành tựu cao nhất của văn học
đổi mới”. [50, tr. 5].
Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh mang lại một góc nhìn mới về chiến
tranh, bổ sung cho cách nhìn đã quen, là tiểu thuyết về cuộc chiến tranh ấy
(chiến tranh chống Mỹ) với tƣ cách là một cuộc chiến tranh. Tác giả đã
trừu tƣợng bớt đi cái phần mục đích, chiến công, nhân tố thắng lợi để chỉ
kể về cuộc chiến tranh với tất cả tính chất chiến tranh của nó. Văn học ta đã
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi9
nói nhiều đến tính chính nghĩa, tính anh hùng, tính cách mạng của cuộc
chiến tranh, nhƣng chƣa nói đƣợc gì đáng kể về tính tàn bạo, tính hủy diệt
bi thảm của nó, những tính chất không chỉ thể hiện ở cái chết nơi chiến
trận, mà còn mở rộng ra thành cái chết trong tâm hồn, tình yêu thành sự dở
dang. Có thể nói, tác giả lộn trái cuộc chiến tranh ra để ta đƣợc nhìn vào cái
phía trong bị che khuất, lấp một chỗ trống chƣa đƣợc lấp. Đây là tiểu thuyết
về nhà văn, về sự hình thành một kiểu nhà văn, dự báo những thay đổi đáng
kể của ý thức văn học. Không nghi ngờ gì, Bảo Ninh đã đóng góp đáng kể,
nhiều mặt cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
Đánh giá cái nhìn về hiện thực chiến tranh, cách viết về chiến tranh thời
hậu chiến, trong bài viết Nỗi buồn chiến tranh viết về chiến tranh thời hậu
chiến – Từ chủ nghĩa anh hùng đến nhu cầu đổi mới bút pháp, trích trong
cuốn Văn học Việt Nam sau 1975, Phạm Xuân Thạch đã đánh giá: “Trong
Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh đã xác lập một cái nhìn mới về hiện thực
lịch sử - hiện thực chiến tranh. Mới trong sự đối chiếu với văn học hiện
thực xã hội chủ nghĩa trong chiến tranh và trƣớc 1986. Cái mới ở đây đƣợc
xác định không chỉ ở việc anh đƣa vào trong tác phẩm của mình những chất
liệu hiện thực chƣa từng có trong văn học chiến tranh (dẫu điều này cũng
có giá trị thẩm mỹ riêng) mà trƣớc hết thể hiện ở việc anh đã tìm đến một
phƣơng pháp tiếp cận hiện thực khác với phƣơng pháp điển hình hóa của
văn học hiện thực truyền thống. Anh không tiếp cận hiện thực thông qua
những nhân vật điển hình, hay mang tính phản ánh, hay mang tính lý
tƣởng (trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa sẽ là sự kết hợ cả hai yếu
tố này). Anh xây dựng và tô đậm tính cá biệt của số phận nhân vật” [54, tr.
248].
Nguyễn Đăng Điệp lại nhìn thấy sự mới mẻ trong cách viết và tiếp cận
hiện thực của Bảo Ninh qua bài viết: Kỹ thuật dòng ý thức qua Nỗi buồn
chiến tranh của Bảo Ninh. Theo ông, “Cho dù viết nhiều về chiến tranh10
nhƣng xét đến cùng tinh huyết của Bảo Ninh kết tụ trong cuốn tiểu thuyết
để đời của ông: Thân phận tình yêu. Toàn bộ tác phẩm là niềm khắc khoải
không nguôi của một ngƣời lính bƣớc ra từ cuộc chiến khắc nghiệt ấy. Vì
thế, nó trung thực đến tận đáy. Và cũng vì thế mà khuôn mặt của chiến
tranh là một khuôn mặt nhàu nát với bao nỗi đau chồng chất. Tên gọi hợp
lý nhất cho nỗi đau ấy phải là Nỗi buồn chiến tranh. Bởi thế, đi liền và hòa
lẫn với nỗi buồn chiến tranh là thân phận cay đắng của tình yêu. Cả hai chủ
đề này xoắn kết với nhau. Nó tựa nhƣ hai mặt của một bản thể thống nhất.
Bị cuốn vào vòng xoáy nghiệt ngã của cuộc chiến, tình yêu cũng bị đày
đọa, bị đẩy tới bờ vực của sự hủy diệt.[11, tr. 399].
Trong công trình Thi pháp hiện đại, bài viết Thân phận tình yêu của
Bảo Ninh, Đỗ Đức Hiểu cũng đánh giá rất cao cuốn tiểu thuyết này: “Trong
văn học Việt Nam mấy chục năm nay, có thể Thân phận của tình yêu là
quyển tiểu thuyết hay về tình yêu, quyển tiểu thuyết tình yêu xót thƣơng
nhất trong tiểu thuyết hiện đại Việt Nam. Nỗi buồn chiến tranh thể hiện
một điểm nhìn mới về cuộc chiến tranh kéo dài ba mƣơi lăm năm, những
cảnh tả chiến tranh, những định nghĩa về chiến tranh la liệt trong tác phẩm.
Nỗi buồn chiến tranh và nỗi buồn tình yêu thấm vào nhau, hòa lẫn vào
nhau, da diết, xót xa, hủy diệt, đó là hai nhịp mạnh của tiểu thuyết”. [22, tr.
266].
Trong cuốn Phê bình văn học từ lý thuyết hiện đại, bài viết Thời gian
trong Thân phận của tình yêu, Đào Duy Hiệp nhận xét: Tiểu thuyết Thân
phận của tình yêu của Bảo Ninh là hồi ức về chiến tranh của một ngƣời
lính – nhà văn. Tính chất hồi ức đã chi phối giọng điệu, tạo ra kiểu thời
gian chồng chéo, đan cài vào nhau trong dòng chảy gần nhƣ dòng ý thức
triền miên suốt gần 350 trang sách” [20, tr. 267]
Trong cuốn Bàn về tiểu thuyết, với bài viết Những biến đổi trong cấu
trúc thể loại tiểu thuyết sau 1975, Bùi Việt Thắng nhấn mạnh tới vấn đề
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi11
“vai trò của ký ức đối với những thay đổi của cấu trúc tiểu thuyết, nó đƣợc
coi nhƣ một thành tố quan trọng dùng để tổ chức tác phẩm. Trong Thân
phận của tình yêu (1990) của Bảo Ninh, tỷ lệ quá khứ - hiện tại là ba trên
một. Ký ức chính là dòng hồi tƣởng “đi tìm thời gian đã mất” trong tâm lý
nhân vật, nối quá khứ với hiện tại. Lối kiến trúc tiểu thuyết kiểu lồng ghép
các “mảnh vỡ tâm trạng” khiến ngƣời đọc rất khó tiếp nhận theo lối truyền
thống. Kiểu kết cấu này giống nhứ kỹ thuật thiết kế các ngôi nhà ống,
ngƣời ta cố tạo ra những “giếng trời” – tức là những “khoảng trống”, dễ
nhận ra trong Thân phận tình yêu” [57, tr. 83].
Trong Thi pháp hiện đại, Đỗ Đức Hiểu đánh giá Thân phận tình yêu là
một hiện tƣợng ngôn từ lạ lùng, mang tính đa thanh, tính đối thoại, là tiểu
thuyết mở, nảy sinh từ trực giác, vô thức (không loại trừ ý thức và lý trí).
Đó là cuộc hành trình của những mộng du, tỉnh mê, huyền bí. Đi tìm thời
gian đã mất của Marce Proust là điểm gặp gỡ của Bảo Ninh với lý luận
hiện đại về văn học. [22, tr. 267]
Có thể nói, Thân phận tình yêu hay Nỗi buồn chiến tranh ngày càng
đƣợc đánh giá cao trong cái nhìn rộng rãi hơn cả về nội dụng, nghệ thuật.
Năm 2003, trả lời phỏng vấn trên Báo Sinh viên Việt Nam về văn học 10
năm qua, Nguyên Ngọc lại một lần nữa khẳng định: Từ Nỗi buồn chiến
tranh, chúng ta mới thực sự có tiểu thuyết hiện đại [48, tr. 9].
Khảo sát nghiên cứu cho thấy, chủ yếu là các công trình bài viết đánh
giá về cái nhìn của Bảo Ninh khi viết về chiến tranh, bút pháp nghệ thuật.
Cụ thể khi đề cập tới chất thơ thì chƣa có một công trình chuyên sâu. Chỉ
dừng lại ở những bài viết đối sánh nhỏ lẻ nhƣ: Trong cuốn Tự sự học – Một
số vấn đề lý luận và lịch sử (Phần 2), bài viết Tư duy thơ trong tiểu thuyết
Việt Nam đương đại, Nguyễn Thị Bình đã nhận định về những văn bản
đƣợc tạo lập theo nhãn quan thơ trong đó có Nỗi buồn chiến tranh. “Nhìn
sâu vào cách tạo lập văn bản sẽ nhận ra những đặc trƣng của tƣ duy thơ đã12
chi phối từ quan niệm thể loại đến bút pháp tiểu thuyết. Thứ nhất là sự nổi
bật nhịp điệu. Cảm xúc trong thơ đƣợc mã hóa bằng nhịp điệu. Ở Việt
Nam, khái niệm “thơ ca” cũng cho thấy nhịp điệu có vai trò rất quan trọng
đối với sáng tác thơ. Văn xuôi tự giác về điều này muộn hơn nhiều và nhịp
điệu tiểu thuyết trong thời gian dài chủ yếu đƣợc nhìn nhƣ tốc độ trần thuật,
sự luân phiên thành phần động – tĩnh. Với Thiên sứ (Phạm Thị Hoài),
Chinatown (Thuận), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh)… nhịp điệu nổi lên
nhƣ một cảm hứng sáng tạo, một sự “cố tình của bút pháp” và trở thành
một cơ chế tổ chức văn bản” [4, tr. 485]
Trong cuốn Thi pháp hiện đại, Đỗ Đức Hiểu có viết: “Chất thơ và
hƣơng thơm trong cuốn tiểu thuyết chủ yếu tỏa lên từ mối tình của Phƣơng,
từ thân thể và tâm hồn Phƣơng” [22, tr. 269].
Để tìm thấy một công trình nghiên cứu chuyên sâu về chất thơ trong Nỗi
buồn chiến tranh là điều ít ỏi, vì thế ngƣời viết hy vọng qua luận văn này
có thể tìm hiểu toàn diện vấn đề này trên phƣơng diện nội dung và nghệ
thuật.
* Khảo sát các công trình nghiên cứu tới chất thơ trong Khúc bi tráng
cuối cùng của Chu Lai
Thống kê cho thấy, hầu hết các bài nghiên cứu viết về Chu Lai cùng
những đóng góp của ông trên phƣơng diện nghệ thuật trong thi pháp tiểu
thuyết. Chƣa có bài báo, công trình nào đề cập tới chất thơ trong Khúc bi
tráng cuối cùng. Sau khi phân loại và đánh giá, ngƣời viết nhận thấy có các
vấn đề lớn đã đƣợc tìm hiểu nhƣ: Thứ nhất, Sự mở rộng và đi sâu vào đề tài
chiến tranh, ngƣời lính. Phần lớn, các sáng tác của Chu Lai, dù ít hay
nhiều, đều khai thác đề tài chiến tranh và ngƣời lính với cái nhìn sâu sắc,
đau đàu và nhân bản. Trong Tiểu thuyết đương đại, Bùi Việt Thắng nhận
xét: “Tiểu thuyết của Chu Lai giới thiệu nhiều vấn đề đáng quan tâm trên
đề tài chiến tranh với ý nghĩa nhƣ một đề tài lịch sử” [58, tr. 66]. Nguyễn
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi13
Hòa lại từ một tác phẩm cụ thể của Chu lai mà khẳng định những phát hiện
mới của nhà văn: “Với Khúc bi tráng cuối cùng, Chu Lai muốn thể hiện
cách nhìn của anh về chiến tranh qua những tình huống bi kịch để chiêm
nghiệm xem con ngƣời đã làm thế nào để vƣợt thoát ra khỏi những tình
huống bi kịch ấy” [58, tr.48]. Tiếp đó nữa là thành tựu về đề tài số phận
ngƣời lính thời hậu chiến, vấn đề đổi mới nghệ thuật của tiểu thuyết Chu
Lai.
Trong Những dấu hiệu đổi mới của văn xuôi sau 1975 qua hệ thống
môtíp chủ đề, Bích Thu cho rằng tiểu thuyết của Chu Lai “là sự truy đuổi
cuối cùng của quá khứ để tìm nguyên nhân cái ác vì chỉ có nhìn thẳng vào
quá khứ, con ngƣời mới tránh đƣợc thảm họa của cái ác, mới có thể trừng
phạt cái ác để thanh thản sống với hiện tại, hƣớng tới lẽ phải và điều thiện”
[61, tr. 8]
Trên Tạp chí Văn nghệ quân đội, tháng 2/ 1993, trong bài Một đề tài
không cạn kiệt, Bùi Việt Thắng đã viết: “Nhân vật Chu Lai đƣợc thể hiện
nhƣ những con ngƣời tâm linh. Họ sống bởi những ám ảnh của ảo giác, hối
thúc bởi sự sám hối, luôn tìm kiếm sự giải thoát. Đó là những con ngƣời trở
về sau chiến tranh bị mất thăng bằng, khó tìm đƣợc sự yên ổn trong tâm
hồn. Họ sống trong cảm giác không bình yên… đi vào ngõ ngách đời sống
tâm linh con ngƣời. Chu Lai làm ngƣời đọc bất ngờ vì những phám phá
nghệ thuật của mình. Nhân vật Chu Lai thƣờng tự soi mình, khám phá một
bản ngã hay là một con ngƣời trong con ngƣời [56, tr. 104]
Trong bài Cuộc tìm tòi về tiểu thuyết in ở Báo Văn Nghệ, số 26, năm
1993, Đỗ Văn Khang đề cập đến nghệ thuật đến nghệ thuật xây dựng nhân
vật trong tiểu thuyết Chu Lai: “Lối chạm khắc nhân vật trong Ăn mày dĩ
vãng cũng có nhiều đóng góp mới. Ngày trƣớc nhân vật thƣờng mang một
ý phổ quát, tức là có cái gì đó chung cho cả lớp ngƣời…, còn Hai Hùng của
Chu Lai có cùng số phận đƣợc miêu tả nhƣ một yếu tố cá biệt, độc nhất14
nhƣng vẫn mang tính điển hình” [26, tr. 4]. Dù bƣớc đầu đã có một số công
trình nghiên cứu khá đầy đủ về tiểu thuyết Chu Lai nhƣ: Đề tài chiến tranh
trong tiểu thuyết Chu Lai (Phạm Thúy Hằng, Luận văn Thạc Sĩ, Đại học Sƣ
phạm Hà Nội, năm 2003), Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai (Tạ
Thị Thanh Thùy, Luận văn Thạc Sĩ, Đại học Sƣ phạm Hà Nội, năm 2005.
Sự thể hiện hình tượng người lính thời hậu chiến trong tiểu thuyết Chu Lai
(Lê Thị Luyến, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Vinh, năm 2006). Nhƣng xét
cách toàn diện, nghiên cứu về chất thơ trong tiểu thuyết của Chu Lai vẫn
còn thiếu cái nhìn cụ thể chi tiết, chỉ dừng ở các bài khái quát nhƣ:
Trên Tạp chí Nhà văn, số 8 năm 2006 với bài Nội lực của Chu Lai, Bùi
Việt Thắng đƣa ra những đánh giá mang tính bao quát toàn bộ các tác
phẩm thuộc thể loại tiểu thuyết của Chu Lai ở phƣơng diện nhân vật và
giọng điệu. Ông nhấn mạnh đến “những dấu son đỏ” nhƣ những cột mốc
ghi nhận lộ trình sáng tạo của Chu Lai là Ăn mày dĩ vãng (1992) và Khúc bi
tráng cuối cùng (2004) [55, tr. 6]
Tựu chung lại đã có những đánh giá tƣơng đối hoàn chỉnh về tiểu thuyết
Chu Lai cũng nhƣ những vấn đề xoay quanh việc viết văn của tác giả này.
Nó cũng chỉ mới giới hạn ở một phạm vi của một tác phẩm cụ thể nào đó.
Chƣa có công trình nghiên cứu về chất thơ trong Khúc bi tráng cuối cùng.
Sau khi khảo sát, ngƣời viết phát hiện đây là hƣớng đi mới cho đề tài.
* Khảo sát các công trình nghiên cứu tới chất thơ trong Tàn đen đốm đỏ
của Phạm Ngọc Tiến
Các bài viết về tác phẩm Tàn đen đốm đỏ không nhiểu. Có một số bài
viết chủ yếu nói tới tiểu sử, đời tƣ của Phạm Ngọc Tiến ví nhƣ: Phạm Ngọc
Tiến và những chuyện thật như đùa trên trang vietnamnet, xuất bản ngày
22/5/2011, Phạm Ngọc Tiến: Đọc Quyền Sư trên trang thông tin của
Nguyễn Trọng Tạo, dáng Phạm Ngọc Tiến trên trang batinh.com,
Nhà văn Phạm Ngọc Tiến: Quyết không sống nhạt trên trang báo Công an
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi15
nhân dân, Biên kịch phim chính luận Phạm Ngọc Tiến: Đã cưỡi lên lưng hổ
thì làm sao xuống được trên trang phaply.net.vn. Nổi bật duy nhất có một
bài đề cập đến chất thơ trong sáng tác của Phạm Ngọc Tiến nói chung. Đó
là bài Nhà văn Phạm Ngọc tiến: Chất thợ, chất lính, chất văn xuất bản trên
báo Tiền Phong. Bài viết nói về những nét bình dị gần gũi trong cuộc sống
của tác giả với một số câu chuyện đời tƣ. Mặt khác, bài viết nói về bản chất
nội tại con ngƣời Phạm Ngọc Tiến. Ông khởi đầu văn chƣơng bằng một
loạt những giải thƣởng. Ở bên trong con ngƣời lúc nào cũng ồn ã, nôn
nóng, nồng nhiệt và chân thật đến thái quá, chất thợ, chất lính lấn át hết cả
mọi ứng xử tạo nên cái dễ gần suồng sã và tin tƣởng ấy, là một tâm hồn
nhạy cảm, cả nghĩ. “Ông viết nhƣ là tự giãi bày cái phần sâu kín bên trong
con ngƣời mình, thành thử cái chất thợ, chất lính không còn là gam chủ lực.
Hình ảnh ngƣời lính trở nên mềm mại tinh tế hơn cái anh lính có nguồn gốc
thợ điện đời thƣờng. Văn Phạm Ngọc Tiến không màu mè ƣớt át, nhƣng
cũng không thô tháp vụng về” [14]. Bài viết còn đề cập tới một thế mạnh
riêng khác nữa của Phạm Ngọc Tiến: “Biên tập kịch bản nhƣ làm thợ” [14].
Tuy nhiên, ngƣời viết nhận thấy chƣa có bài viết cụ thể nào nói về chất thơ
trong Tàn đen đốm đỏ của Phạm Ngọc Tiến. Chính vì vậy, khai thác chất
thơ trong sáng tác của ông, ngƣời viết hy vọng sẽ đóng góp một phần nào
những phát hiện mới về giá trị nội dung và nghệ thuật của tiểu thuyết theo
phƣơng diện chất thơ.
3. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
* Đối tƣợng
Chất thơ trong tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh thời kỳ đổi mới qua
ba tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Khúc bi tráng cuối cùng
(Chu Lai), Tàn đen đốm đỏ (Phạm Ngọc Tiến)16
* Phạm vi nghiên cứu
Tiểu thuyết viết về chiến tranh thời kỳ đổi mới có hàng trăm cuốn sách
đƣợc xuất bản. Tuy nhiên trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ, ngƣời viết chỉ
khai thác chất thơ qua:
Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh)
Khúc bi tráng cuối cùng (Chu Lai)
Tàn đen đốm đỏ (Phạm Ngọc Tiến)
4. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA LUẬN VĂN
Triển khai đề tài này, ngƣời viết cố gắng phát hiện và chỉ rõ nội dung,
hình thức biểu hiện của chất thơ trong ba tiểu thuyết viết về đề tài chiến
tranh trên các phƣơng diện cụ thể tƣơng ứng.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện mục đích nghiên cứu đã đề ra, ngƣời viết sử dụng kết hợp
các phƣơng pháp nghiên cứu sau:
- Phƣơng pháp thống kê, phân tích tổng hợp: Phƣơng pháp thống
kê giúp ngƣời viết khảo sát, tìm hiểu tần số xuất hiện, sự biểu hiện của
những yếu tố có ý nghĩa quyết định, từ đó chỉ ra đƣợc chất thơ trong tiểu
thuyết viết về chiến tranh thời kỳ đổi mới.
- Phƣơng pháp tiếp cận thi pháp học: Phƣơng pháp này giúp ngƣời
viết khảo sát, phân tích các phƣơng diện nghệ thuật biểu đạt nội dung nhƣ
giọng điệu... một cách hệ thống.
- Phƣơng pháp cấu trúc: Phân tích tác phẩm nhƣ một hệ thống các
yếu tố, từ đó thấy đƣợc chức năng và mối quan hệ giữa các yếu tố ấy với
nhau. Phƣơng pháp này có vai trò quan trọng làm rõ đƣợc những đặc trƣng
về nghệ thuật (ngôn ngữ, giọng điệu...) gắn kết với việc biểu đạt nội dung
nhƣ thế nào.
- Phƣơng pháp so sánh: Phƣơng pháp so sánh đƣợc vận dụng để
làm sáng rõ những yếu tố kế thừa cũng nhƣ cách tân về nghệ thuật, nội
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi17
dung biểu hiện chất thơ
6. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung gồm 3
chƣơng:
Chƣơng 1: Chất thơ và chất thơ trong văn xuôi
Chƣơng 2: Bức tranh hiện thực đậm chất thơ trong Nỗi buồn chiến
tranh, Khúc bi tráng cuối cùng, Tàn đen đốm đỏ
Chƣơng 3: Những phƣơng thức biểu hiện của chất thơ qua Nỗi
buồn chiến tranh, Khúc bi tráng cuối cùng, Tàn đen đốm đỏ
chiều buông trên sông bát ngát... nàng nhƣ là thảo nguyên vừa qua mùa
mƣa luớt vào mùa gió, cuồn cuộn sóng cả xô bờ, rợp trời hoa cúc bay,
nàng xinh đẹp, mê dại, và bất kham, hấp dẫn đến lịm ngƣời bởi sắc đẹp kỳ
ảo khôn lƣờng, đẹp một cách đến đau lòng, đẹp nhƣ thể một sắc đẹp bị
chấn thƣơng, nhƣ thể một sắc đẹp lâm nguy, mấp mé bên bờ vực" [52, tr.
190].
Không hiểu vì sao, khi tiếp nhận những câu văn ấy, ngƣời đọc cảm
thấy nhƣ đọng lại trong tâm trí mình một chất nhạc quyến rũ say mê và
thơ mộng. Phải chăng sức hấp dẫn này là lý do giải nghĩa tại sao Nguyễn
Phan Hách khi đọc Nỗi buồn chiến tranh lại khen ngôn ngữ trong tiểu
thuyết là một "tác phẩm văn chƣơng đích thực. Văn đẹp lắm, cực kỳ đẹp.
Những chi tiết tuyệt vời gây ấn tƣợng không thể nào quên, những chi tiết
gợi bóng dáng một tác phẩm lớn"
Trên cái nền chết chóc bởi sự tàn phá hủy hoại của chiến tranh, hiện lên
một số địa danh nhƣ: Truông Gọi Hồn, Đồi Tử Sỹ, Đồi Xáo Thịt... tƣợng
trƣng cho không gian chiến trận. Hoa hồng ma (loài hoa ƣa máu) tƣợng
trƣng cho sự tàn phá của chiến tranh và sức sống mạnh mẽ của tự nhiên.
Hình ảnh Hồ Tây hiện thân của tình yêu trong sáng, đắm say tuổi 17 vĩnh
viễn trôi xa không trở lại. Đồi Mơ lại là hình ảnh ẩn dụ của một cuộc sống
yên bình trong mơ của mỗi ngƣời lính trở về từ chiến trận cùng với nỗi đau
buồn lớn, nơi con ngƣời tìm kiếm sự thanh thản trong tâm hồn hòng quên
quá khứ chiến tranh đeo bám nặng nề. ám ảnh trong Kiên những năm tháng
cuối đời là hình ảnh của một dòng sông ẩn dụ giống nhƣ dòng trôi của kiếp
sống con ngƣời. Đó là nơi Kiên đón nhận cái chết, cảm giác rõ rệt nhất
đang đến với mình. Con ngƣời Kiên dƣờng nhƣ có sự phân thân giữa con
ngƣời thực tại và con ngƣời tâm linh. Thực tại là con ngƣời trở về sau chiến
tranh dị mọ luống tuổi trƣớc dòng đời nghiệt ngã, còn con ngƣời tâm linh
đứng trên mỏm đá cao quan sát khúc sông cuộn chảy chờ đến lúc "nhắm
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi67
mắt lại, từ từ ngã ngƣời ra để thả mình rơi xuống. Cái chết đến với anh
không phải là một sự kiện quá nặng nề, anh cảm nhận thấy nó trong cõi
lòng u ám, cô đơn của mình những ngày sau chiến tranh và khi Phƣơng bỏ
anh ra đi không một lời từ biệt. Sự tồn tại của anh trên cõi đời này chỉ còn
là cái bóng đã mất hết năng lực tồn tại trong thực tế nhƣng vẫn sống dựa
vào sức lì dữ dội, dai dẳng của năng lƣợng ký ức" [52, tr. 161].
Bảo Ninh muốn dùng thứ ngôn ngữ mới lạ, đầy chất thơ và hƣơng thơm
để chạm tới một miền đất mới trong đời sống tâm linh nhân vật. Đó là miền
đất của những ảo giác nó thuộc về tiềm thức mà chỉ có sức mạnh của ngôn
ngữ mới đủ sức nắm bắt, miêu tả và truyền cảm đƣợc dòng mạch của nó.
Đây chính là thứ ngôn ngữ văn chƣơng nghệ thuật của lòng ngƣời.
Những”sợi tơ ngôn từ” đƣợc các nhà văn chƣng cất, tinh lọc dệt nên
những sắc màu tƣơi tắn, làm bừng sáng cảnh núi rừng, sông nƣớc, nơi in
dấu chân những ngƣời lính. Đây là rừng núi Tây Nguyên (Khúc bi tráng
cuối cùng) hiện lên với vẻ tinh khôi chan hòa ánh sáng: “Buổi sớm. Rừng
vắng. Những hoa nắng nhảy nhót trên mặt đất, trên thảm cỏ còn ƣớt sƣơng.
Không khí tĩnh mịch bao trùm. Tĩnh mịch đến nỗi dƣờng nhƣ nghe đƣợc cả
tiếng lá khô rơi, cả tiếng chân con chồn nhỏ nào giẫm khẽ lên cỏ lá ngoài
bìa trảng. Vẳng một tiếng vƣợn hót chiu chit nghe nhƣ vuốt xoáy vào
không gian”. [28, 66]. Với sự liên tƣởng so sánh độc đáo, Chu Lai làm
sống dậy một rừng núi hùng vĩ, khoáng đạt.
Tác giả sử dụng một tần suất biện pháp liên tƣởng so sánh khá cao khi
miêu tả núi rừng. Bên cạnh khung cảnh “Thành phố tã tƣợi và nóng nhức
nhƣ một sòng bạc, nhƣ một khu nhà thổ lớn mà ở đó con ngƣời đƣợc
thả hết cái triết lý hiện sinh sôi sủi của mình vào canh bạc, đáy rƣợu và hơi
thở cuồng loạn của đàn bà” [28, 38], chỉ có một nơi không gian yên tĩnh
hoang mạc đó là Biển Hồ. Biển Hồ hiện lên nhƣ mang linh hồn của vùng
đất Pleiku. “Cái hồ rộng dài lung linh nhƣ một đôi mắt Tây Nguyên này có68
từ bao giờ không rõ và sâu đến chừng nào cũng không ai hay… Mặt hồ vẫn
long lanh rợn sóng và gió hồ vẫn dào dạt thổi nhƣ chấp nhận hết mà cũng
nhƣ chả chấp nhận gì những dự đoán, những huyền thoại mà con ngƣời nhỏ
bé, tội tình cứ ngơ ngẩn, lãng đãng khoác lên mình nó”. Bức tranh thiên
nhiên mang đến một cảm giác vô cùng bình yên, nó đƣợc dệt nên bởi
những sợi tơ ngôn từ trau chuốt, óng ả và rất đỗi trữ tình, chan hòa màu
sắc, ánh sáng, hình khối sinh động, sắc nét, có màu vàng của nắng, màu
xanh thẫm của núi rừng, màu bạc của mây chiều, màu trắng sáng, tím thẫm
của nền trời, có ánh lung linh long lánh của áng mây, có ánh sáng nhấp
nháy của những ngôi sao đầu tiên. Các tính từ đƣợc chọn lọc bởi tâm hồn
tinh tế của Chu Lai cùng với phép so sánh liên tƣởng, các từ láy “long
lanh”, “bàng bạc”, giàu hình ảnh khiến cho bức tranh thiên nhiên vừa giàu
chất tạo hình lại vừa nhƣ lung linh ánh sáng. Kể về những trận đánh nơi núi
rừng Tây Nguyên, những lời miêu tả giàu hình ảnh ngỡ nhƣ lạc lõng trong
những ồn ào của bm đạn, đổ nát. Song chính ở những khoảnh khắc thơ
mộng, bình yên nhƣ thế, vẻ đẹp của tâm hồn con ngƣời, vẻ đẹp của thiên
nhiên mới có dịp tỏa sáng, xóa nhòa đi khốc liệt của chiến tranh, những
mất mát của đời ngƣời. Nó đem lại cho độc giả những giây phút thƣ thái
tạo nên những khoảng lặng đậm màu sắc thẩm mỹ.
Vẻ đẹp của ngôn ngữ đậm chất thơ đƣợc thể hiện tinh tế trong bức
trranh rừng núi Tây Nguyên về đêm trong nét đẹp huyền bí: “Trên cao, bầu
trời đêm xôn xao gió và nhấp nháy những ngôi sao xa. Thật thanh bình và
yên ả của một đêm huyền tích cổ xƣa” [28, tr. 243]. Thiên nhiên hiện lên
đẹp nhƣ những bài thơ trữ tình mang đến một cảm giác lâng lâng cho ngƣời
đọc. Ngôn ngữ đƣợc sử dụng óng ả, thật đẹp trong hình ảnh “ Giữa một
cánh rừng thƣa có nhiều ánh nắng đang dệt hoa dƣới đất. Tiếng đàn T‟rƣng
vang tính tang bên suối nƣớc đâu đây cứ gợi lên trong họ cả một nét nhạc
cao nguyên vạm vỡ, da diết khiến bƣớc chân đi nhƣ đƣa, nhƣ ru, bồng

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

Các chủ đề có liên quan khác

Top