Nana_InLove

New Member
LINK TẢI LUẬN VĂN MIỄN PHÍ CHO AE KET-NOI

Bởi vậy mà Giai cấp công nhân và các phong trào yêu nước trên đất nước Việt Nam được ví như là một mảnh đất mầu mỡ. Và con đường cách mạng của Mác-Lênin lại được xem như một hạt mầm. Nguyễn ái Quốc là người đã mang hạt mầm đó reo nên mảnh đất mầu mỡ. Và thành quả của nhủ nghĩa cộng sản.

BàI làm.
I.Quá trình diễn biến bối cảnh lịch sử :
Vào giữa thế kỷ XIX, nước Việt Nam đã bị thực dân Pháp xâm lược, mở đầu bằng cuộc tấn công vào cảng Đà Nẵng. Sau khi hoàn thành việc xâm lược và bình định vũ trang, thiết lập bộ máy thống trị trên toàn bộ đất nước ta, thực d0n Pháp tiến hành những cuộc khai thác thuộc địa nhằm cướp đoạt tài nguyên, bóc lộp nhân công rẻ mạt, cho vay nặng lãi, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá của chính quốc. Chính sách thuộc địa của Pháp ở Việt Nam và cả Đông Dương là chuyên chế về chính trị, kìm hãm và nô dịch về văn hoá, bóc lộp nặng nề về kinh tế, nhằm đem lại lợi nhuận tối đa cho bọn tư bản long đoạn Pháp, chứ không phải đem đến cho nhân dân các nước Đông Dương sự” khai hoá văn minh”,” khai hoá và cải tạo theo kiểu phương Tây”! Cái mà chúng thường rêu rao gọi là” sứ mạng khai hoá” chính là sự khai thác thuộc địa cảu bọn thực dân bằng lưỡi lê, họng súng, giá theo cổ và hãm hiếp phụ nữ. Nói về các” nhà khai hoá” thực dân, Hồ Chí Minh tong vạch rõ:” Khi người ta đã là một nhà khai hóa thì người văn minh nhất” và nếu dân bản xứ không nhịn nhục được phải vùng lên, thì các nhà khai hoa” đưa quân đội, song liên thanh, súng cối và tàu chiến đến. Người ta bắn bớ và bỏ tù hàng loạt. Đầy, công cuộc khai hoá là nhân từ như thế đấy”
Điều cơ bản để tiến hành khai thác thuộc địa là phải đầu tư, xuất khẩu tư bản đến các nước này. Năm 1890, đế quốc Pháp đầu tư ra nước ngoài 20 tỷ phrăng, đến năm 1914 tăng lên 60 tỷ phrăng. Chỉ tính riêng ở Đông Dương, từ năm 1860 đến năm 1912, qua hình thức cho vay, chính phủ Pháp và các tập đoàn tư bản ngân hàng Pháp đã đầu tư 499 tỷ phrăng.
Hậu quả của 4 sự xuất khẩu tư bản và du nhập chủ nghĩa tư bản theo kiểu thực dân vào nước ta đã đem lại những biến đổi sâu sắc về kinh tế, xã hội và giai cấp. Mặc dù đế quốc Pháp vẫn duy trì cách bóc lột kinh tế cũ theo kiểu phong kiến ở nông thôn với mưu đồ sử dụng giai cấp địa chủ làm tay sau 0ho chúng, song, một khi cách thống trị tư bản thực dân đã trùm lên toàn bộ đất nước ta, thì tất cả trong quỹ đạo phát triển của chủ nghĩa tư bản theo kiểu thực dân và phải biến chuyển theo qúa trình ấy. Xã hội Việt Nam vì vậy từ chế độ phong kiến độc lập đã chuyển thành chế độ thuộc địa.
Dưới chế độ đó, nền kinh tế Việt Nam bị kìm hãm nặng nề, do đó tiến triển rất chiểm chạp và què quặt. Do cách bóc lột phong kiến vẫn còn được duy trì một phần để phục vụ cho chủ nghĩa thực dân, cho nên nền kinh tế Việt Nam nói chung mang tính chất tư bản thực dân, nhưng đồng thời còn mang một phần tính chất phong kiến.
Các mâu thuẫn của xã hội Việt Nam đều do tính chất trên đây chi phối. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, mâu thuẫn cơ bản vốn có trong lòng xã hội Việt Nam phong kiến cũ là mâu thuẫn giữa nhân dân ta, trước hết là nông dân, với giai cấp địa chủ phong kiến không mất đi, mà vẫn tiếp tục tồn tại, tuy không còn hoàn toàn giống như trước. Bên cạnh mâu thuẫn này, xuất hiện một mâu thuẫn mới bao trum lên tất cả, đó là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tọc ta với đế quốc thực dân Pháp. Mâu thuẫn này ngày càng mở rộng, gay gắt thêm. Mâu thuẫn này vừa là mâu thuẫn cơ bản đồng thời vừa là mâu thuẫn chủ yếu cảu xã hội Việt Nam- một xã hội thuộc đIạ của Pháp. Sự áp bức bóc lột và sự chà đạp quyền độc lập dân tộc càng tăng thì sự phản kháng và đấu tranh dân tộc càng mạnh, càng quyết liệt. Thái độ, vị trí của các giai cấp ở Việt Nam bao gồm nông dân, công nhân, tiểu tư sản, tư sản, và cả một bộ phận trong giai cấp địa chủ đối với bọn cướp nước đều bị mâu thuẫn này chi phối. Phong trào dân tộc ở Việt Nam về cơ bản diễn biến trên cơ sở những đIều kiện chính trị, kinh tế- xã hội đó và trong sự tác động chung của cảnh quốc tế trong từng thời kỳ lịch sử.
II- các phong trào dân tộc theo khuyng hướng chính trị tư sản và tiểu tư sản thành thị trước ngày đảng cộng sản việt nam ra đời và kết cục của nó

Từ lâu đời dân tọc Việt Nam vốn có một truyền thống yêu nước nồng nan, một tinh thần đấu tranh anh hùng và bất khuất. Từ khi thực dân Pháp nổ song xâm lược, nhân dân ta đã đứng lên kháng chiến không ngừng để bảo vệ nền đọc lập dân tộc: phong trào chống Pháp ở Nam Kì( 1861- 1868), phong trào Cần vương ở Trung kỳ và Bắc kỳ( 1885-1895), khởi nghĩa Yên Thế ỏ Bắc kỳ (1885-1913). Song các phong trào đó đều lần lượt bị thực dân Pháp đàn áp.
Vào đầu thế kỷ XX, trên phạm vi quốc tế, sự thực tính của châu ácùng với phong trào dân chủ tư sản ở Đông Âu bắt đầu từ cách mạng 1905 ở Nga đã tạo thành một cao trào thực tỉnh Phương Đông. Hàng trăm triệu người đã hướng về một cuộc sống mới với ánh sáng tự do. Phong trào dân tọc ở Việt Nam cũng bắt đầu hoá nhập vào cao trào Phương Đông thức tỉnh trên cơ sở một xã hội với kết cấu giai cấp đã biết chuyển theo một trào lưu tư tưởng mới mang nội dung và hình thức tổ chức chính trị mới.
ở Việt Nam, đầu thế kỷ XX, trào lưu dân chủ tư sản qua các sách báo mới của Trung Quốc đã dội vào nước ta tiêu biểu là tư tưởng cải lương của Lương KhảI Siêu, Khang Hữu Vi… Tư tưởng cách mạng của giai cấp tư sản Pháp trong thời kỳ đang phát triển tiến bộ với các đại biểu Rút- Xô( Rousseau), Mông- te- ski- ơ( montesquieu), Vôn- te( Voltaire)…, nhưng khẩu hiệu tự do,
Năm 1921, được sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn áI Quốc cùng một số người yêu nước của các thuộc địa Pháp sáng lập ra Hội liên hiệp thuộc địa. Tờ báo ngưòi cùng khổ do nguyễn ái Quốclàm chủ nhiện kiêm chủ bút đã vạch trần chính sách đàm áp, bóc lột giã man của chủ nghĩa đế quốc nói riêng, thức tỉnh các dân tộc bị áp bức nổi dậy đấu trnh tự giải phóng. Nguyễn ái Quốc còn viết nhiều bài cho báo nhân đạo, đời sống nhân dân(của tổng liên đoàn lao động Pháp) v. v… và cuốn sách nổi tiếng Bản án chế độ thực dân Pháp. Mặc dù bị nhà cầm quyền Pháp tim mọi cách ngăn chặn, cấm đoán, các sách báo nói trên vẫn được bí mật chuyển về Việt Nam.
Nhân dân ta, trước hết là những người tiểu tư sản trí thức yêu nước, tiến bộ nhờ đọc các sách báo tiến bộ đó mà hiểu rõ hơn bản chất của chủ nghĩa đế quốc nói chung và của chủ nghĩa thực dân Pháp nói riêng,hiểu được Cách mạng tháng mười Nga và đã hướng về chủ nghĩa Mác-Lênin.
Tháng 6-1923 Nguyễn ái Quốc rời nước Pháp sang Liên xô dự hội nghị quốc tế Nông Dân và được bầu vào ban chấp hành sau đó Nguyễn ái Quốc ở lại Liên Xô 1 thời gian, vừa làm việc vừa nghiên cứu học tập và làm việc ở Quốc tế cộng sản, viết bài cho báo sự thật, tạp chí thư tín Quốc Tế. Tại đại hội Quốc tế cộng sản lần thứ v ( 1924), Nguyễn áI Quốc trình bảy lập trường, quan đIểm của mình vào vị trí chiến lược cách mạng ở các nước thuộc địa, về vai trò và sứu mạnh to lớn của giai cấp nông dân ở các nước thuộc địa.
Những quan điểm cơ bản về chiển lược và sách lược cách mạng giải phóng thuộc địa trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản mà Nguyễn ái Quốc đã tiếp nhận được dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin và đã có công truyền bá vào nước ta từ sau chiến tranh là một bước ngoặt chủân bị quan trọng về chính trị và tư tưởng cho sự thành lập chính đảng vô sản ở nước ta trong giai đoạn tiếp sau.
Đảng cộng sản Viêt Nam ( từ tháng 10-1930 lấy tên là Đảng cộng sản Đông Dương), ra đời năm 1930 là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp Việt Nam trong thời đại mới. Đảng là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước trong những năm 20 của thế kỉ này.
Việc thành lập Đảng là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử giai cấp công nhân và của cách mạng Việt Nam.”Nó chứng tỏ được rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đã đủ sức lãnh đạo cách mạng, chấm dứt thời kì khủng hoảng về vai trò lãnh đạo trong phong trào cách mạng Việt Nam. Từ đây, cách mạng Việt Nam đã thuộc quyền lãnh đạo tuyệt đổi của giai cấp công nhân mà đội tiên phong là Đảng cộng sản. Cung từ đây, cách mạng Việt Nam đã thực sự chở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên, có tính quyết định cho từng bước phát triển nhảy vọt về sau của dân tộc Việt Nam.


Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

nhinhinhi0703

New Member
Em xin link đầy đủ với ạ

Download Tiểu luận Trình bày các yếu tố để hình thành nên Đảng cộng sản Việt Nam miễn phí





Việt Nam quốc dân đảng thành lập thàng 12-1927 từ nhóm hạt nhân đầu tiên là Nam đồng thư xã, một nhà xuất bản tíên bộ do Phạm Tuấn Tài lập ra hồi đầu năm 1927. VNQDĐ do Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài sáng lập là một đảng chính trị theo xu hướng cách mạng tư sản dân chủ. Mục tiêu của VNQDĐ nhằm: đánh đuổi giắc Pháp, đánh đổ ngôi vua, sau cùng chưa bao giờ trở thành hệ thống trong cả nước, thành phần đảng viên lại phức tạp, tổ chức lỏng lẻo, ít có cơ sở quần chúng. Vì vậy nó chỉ hoạt động thành một phong troà rộng lớn. Việt Nam quốc dân đảng sớm bị thực dân Pháp khủng bố. Nhiều cơ sở của đảng bị vỡ. Nhiều cán bộ quan trọng của cơ sở đảng bị bắt. Bị động trước tình thế, mặc dù hệ thống tổ chức của đảng chưa được xây dung xong, nhưng các yếu nhân của đảng đã quyết định dốc hết lực lượng để thực hiện trận đấu tranh sống chết nếu” không thành công thì thành nhân”. Cuộc khởi nghĩa của VNQDĐ nổ ra đêm 9-2-1930 ở Yên Bái và một vài địa phương ở Phú Thọ, Hải Dương, Thái Binh đã bị thực dân Pháp nhanh chóng dập tắt. Cuộc khởi nghĩa đó biểu thị tính chất hăng hái bang bột nhất thời của tầng lớp tiểu tư sản và trí thức. Nó còn biểu lộ tính chất non yếu và không vững chắc của phong trào dân tộc dân chủ theo khuyng hướng tư sản dưới ngọn cờ của Việt Nam quốc dân đảng đã không đáp ứng được yêu cầu khách quan của sự nghiệp giảI phóng dân tọc của nhân dân ta, không đủ sức đương đầu trước sự đàn áp khủng bố của kẻ thù. Vai trò của VNQD Đ trong phong trào dân tộc vừa mới nhóm đã vĩnh viễn chấm dứt cùng với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái.



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

Đề 1: Trình bày các yếu tố để hình thành nên ĐCSVN.
Lập giàn ý:
3 yếu tố để hình thành nên ĐCSVN là:
Đường
lối CM
của
Lênin
Hình thành nên
ĐCSVN
Giai cấp
Công nhân
Phong trào
Chủ nghĩa
Yêu nước
Bởi vậy mà Giai cấp công nhân và các phong trào yêu nước trên đất nước Việt Nam được ví như là một mảnh đất mầu mỡ. Và con đường cách mạng của Mác-Lênin lại được xem như một hạt mầm. Nguyễn ái Quốc là người đã mang hạt mầm đó reo nên mảnh đất mầu mỡ. Và thành quả của nhủ nghĩa cộng sản.
BàI làm.
I.Quá trình diễn biến bối cảnh lịch sử :
Vào giữa thế kỷ XIX, nước Việt Nam đã bị thực dân Pháp xâm lược, mở đầu bằng cuộc tấn công vào cảng Đà Nẵng. Sau khi hoàn thành việc xâm lược và bình định vũ trang, thiết lập bộ máy thống trị trên toàn bộ đất nước ta, thực d0n Pháp tiến hành những cuộc khai thác thuộc địa nhằm cướp đoạt tài nguyên, bóc lộp nhân công rẻ mạt, cho vay nặng lãi, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá của chính quốc. Chính sách thuộc địa của Pháp ở Việt Nam và cả Đông Dương là chuyên chế về chính trị, kìm hãm và nô dịch về văn hoá, bóc lộp nặng nề về kinh tế, nhằm đem lại lợi nhuận tối đa cho bọn tư bản long đoạn Pháp, chứ không phải đem đến cho nhân dân các nước Đông Dương sự” khai hoá văn minh”,” khai hoá và cải tạo theo kiểu phương Tây”! Cái mà chúng thường rêu rao gọi là” sứ mạng khai hoá” chính là sự khai thác thuộc địa cảu bọn thực dân bằng lưỡi lê, họng súng, giá theo cổ và hãm hiếp phụ nữ. Nói về các” nhà khai hoá” thực dân, Hồ Chí Minh tong vạch rõ:” Khi người ta đã là một nhà khai hóa thì người văn minh nhất” và nếu dân bản xứ không nhịn nhục được phải vùng lên, thì các nhà khai hoa” đưa quân đội, song liên thanh, súng cối và tàu chiến đến. Người ta bắn bớ và bỏ tù hàng loạt. Đầy, công cuộc khai hoá là nhân từ như thế đấy”
Điều cơ bản để tiến hành khai thác thuộc địa là phải đầu tư, xuất khẩu tư bản đến các nước này. Năm 1890, đế quốc Pháp đầu tư ra nước ngoài 20 tỷ phrăng, đến năm 1914 tăng lên 60 tỷ phrăng. Chỉ tính riêng ở Đông Dương, từ năm 1860 đến năm 1912, qua hình thức cho vay, chính phủ Pháp và các tập đoàn tư bản ngân hàng Pháp đã đầu tư 499 tỷ phrăng.
Hậu quả của 4 sự xuất khẩu tư bản và du nhập chủ nghĩa tư bản theo kiểu thực dân vào nước ta đã đem lại những biến đổi sâu sắc về kinh tế, xã hội và giai cấp. Mặc dù đế quốc Pháp vẫn duy trì cách bóc lột kinh tế cũ theo kiểu phong kiến ở nông thôn với mưu đồ sử dụng giai cấp địa chủ làm tay sau 0ho chúng, song, một khi cách thống trị tư bản thực dân đã trùm lên toàn bộ đất nước ta, thì tất cả trong quỹ đạo phát triển của chủ nghĩa tư bản theo kiểu thực dân và phải biến chuyển theo qúa trình ấy. Xã hội Việt Nam vì vậy từ chế độ phong kiến độc lập đã chuyển thành chế độ thuộc địa.
Dưới chế độ đó, nền kinh tế Việt Nam bị kìm hãm nặng nề, do đó tiến triển rất chiểm chạp và què quặt. Do cách bóc lột phong kiến vẫn còn được duy trì một phần để phục vụ cho chủ nghĩa thực dân, cho nên nền kinh tế Việt Nam nói chung mang tính chất tư bản thực dân, nhưng đồng thời còn mang một phần tính chất phong kiến.
Các mâu thuẫn của xã hội Việt Nam đều do tính chất trên đây chi phối. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, mâu thuẫn cơ bản vốn có trong lòng xã hội Việt Nam phong kiến cũ là mâu thuẫn giữa nhân dân ta, trước hết là nông dân, với giai cấp địa chủ phong kiến không mất đi, mà vẫn tiếp tục tồn tại, tuy không còn hoàn toàn giống như trước. Bên cạnh mâu thuẫn này, xuất hiện một mâu thuẫn mới bao trum lên tất cả, đó là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tọc ta với đế quốc thực dân Pháp. Mâu thuẫn này ngày càng mở rộng, gay gắt thêm. Mâu thuẫn này vừa là mâu thuẫn cơ bản đồng thời vừa là mâu thuẫn chủ yếu cảu xã hội Việt Nam- một xã hội thuộc đIạ của Pháp. Sự áp bức bóc lột và sự chà đạp quyền độc lập dân tộc càng tăng thì sự phản kháng và đấu tranh dân tộc càng mạnh, càng quyết liệt. Thái độ, vị trí của các giai cấp ở Việt Nam bao gồm nông dân, công nhân, tiểu tư sản, tư sản, và cả một bộ phận trong giai cấp địa chủ đối với bọn cướp nước đều bị mâu thuẫn này chi phối. Phong trào dân tộc ở Việt Nam về cơ bản diễn biến trên cơ sở những đIều kiện chính trị, kinh tế- xã hội đó và trong sự tác động chung của cảnh quốc tế trong từng thời kỳ lịch sử.
II- các phong trào dân tộc theo khuyng hướng chính trị tư sản và tiểu tư sản thành thị trước ngày đảng cộng sản việt nam ra đời và kết cục của nó
Từ lâu đời dân tọc Việt Nam vốn có một truyền thống yêu nước nồng nan, một tinh thần đấu tranh anh hùng và bất khuất. Từ khi thực dân Pháp nổ song xâm lược, nhân dân ta đã đứng lên kháng chiến không ngừng để bảo vệ nền đọc lập dân tộc: phong trào chống Pháp ở Nam Kì( 1861- 1868), phong trào Cần vương ở Trung kỳ và Bắc kỳ( 1885-1895), khởi nghĩa Yên Thế ỏ Bắc kỳ (1885-1913). Song các phong trào đó đều lần lượt bị thực dân Pháp đàn áp.
Vào đầu thế kỷ XX, trên phạm vi quốc tế, sự thực tính của châu ácùng với phong trào dân chủ tư sản ở Đông Âu bắt đầu từ cách mạng 1905 ở Nga đã tạo thành một cao trào thực tỉnh Phương Đông. Hàng trăm triệu người đã hướng về một cuộc sống mới với ánh sáng tự do. Phong trào dân tọc ở Việt Nam cũng bắt đầu hoá nhập vào cao trào Phương Đông thức tỉnh trên cơ sở một xã hội với kết cấu giai cấp đã biết chuyển theo một trào lưu tư tưởng mới mang nội dung và hình thức tổ chức chính trị mới.
ở Việt Nam, đầu thế kỷ XX, trào lưu dân chủ tư sản qua các sách báo mới của Trung Quốc đã dội vào nước ta tiêu biểu là tư tưởng cải lương của Lương KhảI Siêu, Khang Hữu Vi… Tư tưởng cách mạng của giai cấp tư sản Pháp trong thời kỳ đang phát triển tiến bộ với các đại biểu Rút- Xô( Rousseau), Mông- te- ski- ơ( montesquieu), Vôn- te( Voltaire)…, nhưng khẩu hiệu tự do, bình đẳng, bác áI của cách mạng Pháp 1789 cũng được xâm nhập vào. Nước Nhật Bản duy tân và tự cường cũng đã có sức hút mạnh đối với các sĩ phu yêu nước và tiến bộ của Việt Nam.
Phong trào đấu tranh dân tộc nhờ đó lại tiếp tục sôI động dưới sự đề xướng và tập hợp của nhiều tổ chức chính trị theo khuynh hướng dân chủ tư sản mang các màu sắc và mức độ khác nhau. Cho đến những năm trước chiến tranh thế giới ở nước ta đã có:
- Phong trào Đông du( 1906- 1908) do nhà yêu nước Phan Bội Châu lãnh đạo. Đây là phong trào mở đầu cho cuộc vận động giải phóng dân tộc theo khuynh hướng dân chủ tư sản . Phong trào Đông du đã đưa được một số thanh niên tiên tiến đI du học và đã dùng văn thơ yêu nước để thức tỉnh quốc dân. Cuộc vận động Đông du chỉ diễn ra được mấy năm và đã bị thực dân Pháp bóp chết. Những du học sinh Việt Nam bị trục xuất ra khỏi Nhật và cả cụ Phan cũng phaỉ rời khỏi đất nước này.
- Phong trào Đông kinh nghĩa thục( 1907) diễn ra khá sôI nổi, dưới các hình thức tuyên truyền cải cách...
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D chuẩn mực kế toán quốc tế IAS 24 trình bày thông tin các bên liên quan Luận văn Kinh tế 0
D Trình bày các mô hình cơ cấu tổ chức quản lý. Liên hệ phân tích mô hình cơ cấu tổ chức của quản lý Luận văn Kinh tế 0
Y Trình bày lý thuyết chung về công nghệ truyền tải không đồng bộ ATM như đặc điểm chung, các dịch vụ, Luận văn Kinh tế 0
H Trình bày các kỹ thuật hình học phân hình thông qua sự khảo sát các cấu trúc Fractal cơ sở và thuật Luận văn Kinh tế 0
A Trình bày các khái niệm trong tạo ảnh cộng hưởng từ, các vấn đề về hạt nhân, spin hạt nhân và các hệ Luận văn Kinh tế 0
D Hoàn thiện công tác lập và trình bày báo cáo tài chính hợp nhất trong các doanh nghiệp sản xuất thép Luận văn Kinh tế 0
H Trình bày các khái niệm cơ bản về chuẩn hoá đội ngũ giáo viên : Luận văn ThS. Giáo dục học: 60.14.05 Luận văn Sư phạm 0
L Trình bày lý thuyết tuần hoàn và chu chuyển của tư bản, ý nghĩa thực tiễn rút ra khi nghiên cứu lý thuyết này đối với việc quản lý các doanh nghiệp Luận văn Kinh tế 0
H Trình bày lý thuyết tuần hoàn và chu chuyển của TB. ý nghĩa thực tiễn rút ra khi nghiên cứu lý thuyết này đối với việc quản lý các doanh nghiệp Luận văn Kinh tế 0
R Trình bày những nguyên nhân làm xuất hiện các câu hát than thân trong kho tàng văn học dân gian Việt Văn học 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top