Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
CÂU 2: Trình bày khái niệm, các yếu tố để xem xết 1 hệ thống là truyền thống? Trình bày và phân tích ưu nhược điểm hạn chế của các hệ thống nông lâm kết hợp mà anh chị biết ? cho biết tại địa phương mình có những hệ thống nông lâm kết hợp nào?
I. KHÁI NIỆM NÔNG LÂM KẾT HỢP
- NLKH là tên chung của những hệ thống sử dụng đất, trong đó các cây thân gỗ lâu năm (cây gỗ, cây bụi, cọ, tre, hay cây ăn quả, cây công nghiệp...) được trồng có suy tính trên cùng một đơn vị diện tích đất với cây thân thảo và/hay với vật nuôi, được kết hợp đồng thời hay kế tiếp nhau theo thời gian và không gian (Lundgren và Raintree, 1983).
- Theo ICRAF (1997) NLKH là một hệ thống quản lý tài nguyên tự nhiên năng động, lấy yếu tố sinh thái làm chính, qua đó cây được phối hợp trồng trên nông trại và vào hệ sinh thái nông nghiệp, để sản xuất bền vững và đa dạng, làm gia tăng các lợi ích kinh tế, xã hội và sinh thái cho người canh tác ở các mức độ, quy mô khác nhau.
- Nông Lâm kết hợp là một cách sản xuất kinh doanh có khoa học, nó kết hợp một cách hài hoà giữa cây nông nghiệp và cây lâm nghiệp giữa trồng trọt và chăn nuôi, sử dụng một cách đầy đủ nhất, hợp lý nhất để sản xuất ra nhiều sản phẩm mà không ảnh hưởng đến đát đai. Môi trường sinh thái bền vững, ít tốn chi phí mang lại hiệu quả kinh tế cao.
- Nông lâm kết hợp là một hệ thống quản lý đất đai trong đó các sản phẩm của rừng và trồng trọt được sản xuất cùng lúc hay kế tiếp nhau trên các diện tích đất thích hợp để tạo ra các lợi ích kinh tế, xã hội và sinh thái cho cộng đồng dân cư tại địa phương (PCARRD, 1979).
II. HỆ THỐNG NÔNG LÂM KẾT HỢP TRUYỀN THỐNG
- Cũng như nhiều Quốc gia khác trên thế giới, các cách canh tác nông lâm kết hợp đã có ở Việt Nam từ lâu đời, như các hệ thống canh tác nương rẫy truy ền thống của đồng bào các dân tộc ít người, hệ sinh thái vườn nhà ở nhiều vùng địa lý sinh thái trên khắp cả nước,... Từ thập niên 60 của thế kỷ trước, song song với phong trào thi đua sản xuất giỏi, hệ sinh thái VAC được nhân dân các tỉnh miền Bắc phát triển mạnh mẽ và lan rộng trên khắp cả nước dưới nhiều hình thức khác nhau, thích h ợp cho từng vùng sinh thái cụ thể; tiếp theo đó là các hệ thống RVAC và vườn đồi đựơc phát triển mạnh mẽ ở các khu vực dân cư miền núi. Tiếp theo đó các dự án của các tổ chức NGOs cũng như các dự án Quốc tế khác cũng đã giới thiệu nhiều cách canh tác b ền vững trên đ ất dốc trong đó có các mô hình nông lâm k ết hợp.
- Trong hai thập niên gần đây, phát triển nông thôn miền núi theo cách nông lâm kết hợp được Đảng và Nhà nước Việt Nam rất quan tâm và khuy ến khích. Quá trình tổ chức và thực hiện các chính sách định canh định cư, phát triển vùng kinh tế mới, và gần đây các chương trình 327, chương trình 5 triệu ha rừng (661), và chính sách phát triển kinh tế trang trại, chính sách xóa đói giảm nghèo, ... đều có liên quan đến việc xây dựng và phát triển các hệ thống nông lâm kết hợp. Cho đến nay các thông tin, kiến thức về nông lâm kết hợp cũng được các nhà khoa học, các tổ chức tổng k ết, đáng giá dưới những góc độ khác nhau, tuy nhiên việc nghiên cứu về tương tác giữa phát triển nông lâm k ết hợp với môi trường tự nhiên,
kinh tế-xã hội cũng như thị trường của các sản phẩm nông lâm kết hợp còn được nghiên cứu chưa nhiều và còn thiếu đồng bộ cả ở mức vi mô và vĩ mô.
- Mặc dù, việc nghiên cứu và phát triển hệ thống nông lâm kết hợp trên thế giới đã có từ lâu, nhưng hệ thống này mới được du nhập vào Việt Nam vào những năm đ ầu thập niên 70 của thế kỷ trước. Hiện nay có nhiều quan điểm, định nghĩa khác nhau về hệ thống nông lâm kết hợp. Thuật ngữ này được sử dụng bao hàm một khái niệm ngày càng mở rộng, v ề đại thể, có thể hiểu nông lâm kết hợp là thuật ngữ dùng đ ể ch ỉ các h ệ thống sử dụng đất, ở đó có các cây, con nông nghiệp được bố trí kết hợp với các cây lâm nghiệp (cây gỗ) theo không gian hay luân canh theo thời gian và có sự tương tác giữa các thành phần của hệ cả mặt sinh thái
và kinh tế.
- Đây là các hệ thống canh tác được phát triển và tích luỹ kinh nghiệm qua nhiều thế hệ, được kiểm nghiệm qua thời gian. Chúng thường được phổ biến ở các cộng đồng người dân tộc sống ở gần hay ngay tại rừng.
- Nói cách khác, hệ thống nông lâm kết hợp truy ền thống là các kiểu canh tác nông lâm kết hợp được phát triển bởi chính người dân đ ịa phương. Điều này chứng minh rằng lý thuy ết về nông lâm kết hợp là mới mẻ nhưng thực ra là một kiểu canh tác đã được người dân sáng tạo ra từ lâu. Nhiều kỹ thuật nông lâm kết hợp đã được đúc kết, tồn tại và thử nghiệm bởi người nông dân qua hàng ngàn năm.
- Các hệ thống nông lâm kết hợp truy ền thống ở vùng núi Việt Nam ở mấy dạng sau:
Các hệ thống nông lâm kết hợp truyền thống
1. Hệ thống bỏ háa/nương rẫy cải tiến
- Có người cho đây là hình thức luân canh rừng tái sinh – nương rãy. Đây là hình thức lâu đời của nông lâm kết hợp nhằm khắc phục các ảnh hưởng tiêu cực của canh tác nương rẫy liên tục, tạo điều kiện để rừng phục hồi độ phì đất. Thực ra họ luân canh từ mảnh đất này sang mảnh đất khác theo thời gian đã được suy tính trước, kỹ thuật này tỏ ra bền vững qua nhiều năm. M ấu chốt của sự bền vững của kỹ thuật canh tác này là thời gian ngừng canh tác để đất được phục hồi, họ thường lui tới nương bỏ hóa để thu hái các sản phẩm trên đất bỏ hóa; như ở Tây Nguyên, nhân dân thường coi rẫy bỏ hóa củ a họ như nơi dự trữ rau, củi đun, trái cây, lương thực, thuốc chữa bệnh,... Khi mật độ dân cư còn thưa thớt, đất đai canh tác nhiều thì thời gian để đ ất nghỉ dài. Trong bố i cảnh hiện nay dân số đông, cộng với chính sách giao đất giao rừng đến hộ nông dân đã hạn chế phần nào đất canh tác của người dân địa phương.
- Để khắc phục tình trạng thiếu đất, ở nhiều nơi đồng bào đã trồng các loài cây cải tạo đất trong giai đo ạn bỏ hóa. Cách làm này vừa rút ngắn được thời gian bỏ hóa vừa cung cấp củi đun cho nhân dân. Nhiều nơi chính quy ền địa phương có sáng kiến qui vùng sản xu ất nương rẫy như ở Nghệ An, Sơn La… chính quy ền địa phương cùng nông dân chia đất canh tác ra nhiều lô để trồng luôn canh cây hoa màu và các cây cải tạo đất, thời gian canh tác từ 2-5 năm phụ thuộc
vào số lô luân canh, tổng diện tích rẫy và khả năng sinh trưởng củ a cây cải tạo đất.
+ Ưu điểm
- Đưa loại cây thân gỗ họ đậu, có khả năng cố định đạm vào gây trồng đã rút ngắn.
-
2. Hệ thống rừng và ruộng bậc thang
- Hệ thống rừng và lúa trồng theo ruộng bậc thang tồn tại từ rất lâu ở Việt Nam, được áp dụng một số nơi ở miền núi phía Bắc và miền núi Trung Bộ. Kỹ thuật này hạn chế được xói mòn và chủ động được nước tưới, hệ thống này đóng vai trò quan trọng trong việc dự trữ nước và đ iều hòa nước cung cấp cho các ruộng bậc thang, chống sạt lở, ngoài ra nó còn cung cấp nguồn lâm sản cho nhân dân.
- Chính vì những ưu việt của hệ thống này mà nó đã và đang được người và chính phủ Việt Nam quan tâm mở rộng (nhà nước hỗ trợ 5 triệu đồng/ha để cải tạo đất nương rãy thành ruộng bậc thang).
3. Hệ canh tác nương rãy tổng hợp
- Đây là lại hình canh tác phổ biến củ a nông hộ người Tày Đà Bắc và các cộng đồng dân cư khác sống ở ven thung lũng, với ba thành tố cơ bản là luân canh rừng-rãy trên sườn dốc, canh tác lúa nước dưới thung lũng kết hợp với chăn nuôi gia súc và thu hái lâm sản phụ từ rừng. Hệ thống này tỏ ra khá bền vững khi mật độ dân số tăng cao đến khoảng 100
4. Vư ờn nhà truyền thống
- Ở Việt Nam, vườn hộ là một trong những cách nông lâm kết hợp truyền thống rất phổ biến ở các vùng nông thôn khắp cả nước. Trong vườn nhà các thành phần cây lâu năm, cây ngắn ngày, vật nuôi và thủy sản được kết hợp hài hòa tận dụng có hiệu qu ả khả năng sản xuất củ a đất, không gian trên mặt đất được tận dụng triệt để và phát huy một cách tối đa thời gian và nguồn lao động trong gia đình để sản xu ất lương thực, thực phẩm và tạo nguồn thu nhập cho gia đình, tuy nhiên ở vùng núi loại hình này chưa phát triển được như vùng đồng bằng.
4.1. Vư ờn rừng
- Đây là những khu đất được sử dụng để trồng cây lâm nghiệp và cây ăn quả theo hướng thâm canh để cung cấp nhiều loại sản phẩm có giá trị hàng hóa cao, loại hình này thường có diện tích biến động từ 0.3-0.5 ha, có khi lên đến vài ba hécta một hộ, và thường liền kề v ới đất thổ cư của gia đình. Vườn rừng thường có cấu trúc một tầng cây gỗ chính được trồng thuần loài, ngoài ra còn có tầng thấp trồng xen dưới tán. Tùy theo điều kiện sinh thái, tập quán và kinh nghiệm truyền thống của từng vùng, cũng như nhu cầu thị trường mà người dân chọn những loài cây nguyên liệu hay những cây đặc sản phù hợp như tre diễn ở Phú Thọ, luồng ở
Thanh Hóa, Hòa Bình, quế ở Yên Bái, Thanh Hóa, Quảng Nam, trám ở Phú Thọ, bời lời ở các tỉnh Tây nguyên, điều ở Đông Nam bộ, dừa ở Bình Định, hồi ở Lạng Sơn..., tầng thấp thường trồng kết hợp để tận dụng đất đai và năng lượng mặt trời, sản xuất thêm lương thực ngắn ngày (lúa, ngô, sắn, đậu đỗ,...), cây dược liệu (gừng, nghệ, sả, ...). Với chính sách giao đất khoán rừng, cùng sự hỗ trợ của các chương trình dự án (chương trình 327, chương trình 661) loại hình này đang được áp dụng rộng rãi trên kh ắp các vùng núi Việt Nam để cải tạo đ ất trống đồi
núi trọc, nâng cao thu nhập cho người dân.
4.2. Vư ờn cây công nghiệp
- Đây là loại hình trồng các loài cây công nghiệp theo hướng thâm canh, thường có diện tích từ 0.5 đến vài ba ha, phần lớn diện tích trồng cây công nghiệp cùng với cây đa mục đích để che bóng, ch ắn gió và tận dụng các sản phẩm khác, nhà ở hay chuồng trại và vườn rau quả ở nơi thấp, gần hay xa vườn nhưng có đ iều kiện nước và đường đi thuận lợi cho sinh hoạt và giao lưu hàng hóa. Loại hình này thường lập theo kiểu nông trại hay rừng đồn điền để kinh doanh những sản phẩm cây công nghiệp có giá trị cao. Kết cấu thường gồm một tầng cây cao để sản xuất hàng hóa chính như cà phê, ca cao, hồ tiêu, chôm chôm, sầu riêng..., giữa các
hàng cây trong những năm đầu thường trồng các loài cây nông nghiệp ngắn ngày để tận dụng đất đai hạn chế cỏ dại; tầng sinh thái được trồng để che phủ đất, hạn chế dòng ch ảy bề mặt, điều tiết nước giữ ẩm cho tầng chính. Loại hình này thường khá phổ biến ở các tỉnh phía Nam, nơi có đ ất đai rộng, mầu mỡ thích hợp với các lo ại cây công nghiệp.
4.3. Vư ờn cây ăn quả
- Đây là hệ thống sử dụng đất truy ền thống gắn liền v ới đất thổ cư với kết cấu thường gồm 3-4 tầng chính, tầng trên cùng là là các cây gỗ to, ưa sáng và cho quả như sầu riêng, dừa, xoài, mít, vải, nhãn,..., tầng giữa là các cây gỗ có kích thước trung bình, chịu bóng và cho qu ả như măng cụt, dâu gia, hồng xiêm, cam, quýt, na,.., và tầng dưới có kích thước thấp, nhỏ có khả năng chịu bóng như ca cao và tầng cuố i cùng có thể là cây thuốc.
4.4. Hệ thống vườn-ao-chuồng (VAC)
Đây là hệ thống rất phổ biến ở Việt Nam từ đồng bằng đến miền núi, diện tích bình
cây thân gỗ đa mục đích hay cây ăn quả, tầng dưới có các cây lấy quả, củ hay làm dược liệu,ngoài ra còn dành ra một khoảng đất nhỏ để trồng rau xanh. Cùng với vườn cây là khu chăn nuôi và ao cá.
4.5. Rừng-vườn-ao-chuồng (RVAC)
- Thực chất hệ thống này là hệ thống VAC cải tiến và đã được phát triển khá lâu tại một số địa phương vùng đồi núi, trong đó có sự kết hợp giữa rừng, vườn cây ăn quả, ao cá và vậtnuôi.
4.6. Hệ thống rừng-hoa màu-lúa nước

- Hệ thống này thường được xây dựng ở những nơi đồi núi tương đối rộng lớn, rừng tự nhiên hay rừng trồng ở đỉnh đồi, thường có hệ thống thủy lợi xây dựng để đưa nước tưới về trồng rau màu trên ruộng bậc thang và canh tác lúa nước ở thung lũng.
III. ƯU VÀ NHƯỢC ĐIỂM CỦA CÁC HỆ THỐNG NÔNG LÂM KẾT HỢP
1. Hệ thống bỏ háa/nương rẫy cải tiến
+ Ưu điểm
- Đưa loại cây thân gỗ họ đậu, có khả năng cố định đạm vào gây trồng đã rút ngắn đáng kể thời gian bỏ hóa nhờ vào khả năng phục hồi độ phì của đất.
- Xúc tiến vòng tuần hoàn dinh dưỡng khoáng một cách có hiệu quả.
- Hình thành dần các bờ đât, làm ổn định đất dốc.
+ Hạn chế
- Gỗ thu hoạch được từ cây keo dậu, được dung để làm hang rào nhiều hơn là chất đốt.
- Công việc rất nặng nhọc, do phải xây dựng và duy trì các hang rào chắn.
2. Hệ thống rừng và ruộng bậc thang
+ Ưu điểm
- Hệ thống có tính bền vững
- Từng bước biến đất dốc thành vùng sản xuất lúa nước.
+ Hạn chế
- Rất tốn công lao động trong việc xay dựng và duy trì hệ thống.
- Chỉ áp dụng được ở những vùng đất có nguồn nước tự nhiên.
3. Vư ờn nhà truyền thống
3.1. Vư ờn rừng
+ Ưu điểm
- Vườn rừng tuy có cấu trúc đơn giản nhưng sử dụng các loại cây bản địa có tính thích ứng cao với điều kiện sinh thái và đất đai của địa phương.
- Duy trì và phát triển tầng cây thấp có tác dụng phù trợ cho tầng cây chính.
- Góp phần tạo dựng môi trường sinh thái ổn định cho sự phát triển bền vững của cây trồng. Bảo tồn được nguồn tài nguyên đất và nước.
- Các hộ gia đình tận dụng được thời gian, nguồn lao động, tạo ra nhiều loại sản phẩm hàng hóa có giá trị cao, tăng thu nhập cho gia đình và có nguồn đầu tư trở laijcho cây trồng. Điều hòa được lợi ích trước mắt và lâu dài.
+ Hạn chế
- Công việc chuẩn bị đất tốn nhiều công lao. Việc làm đất và trồng cây lâm nghiệp dễ làm hư hại thực bì tự nhiên. Xói mòn đất dễ xẩy ratrong những năm đầu ảnh hưởng đến năng suất và cây trồng về sau.
- Cây lâm nghiệp thường cần thời gian dài mới cho sản phẩm, điều này hạn chế sự chấp nhaanjcuar nông dân, đặc biệt là đối với các hộ nghèo.
- Cần diện tích đất đủ lớn để gây trồng nên khó thích hợp ở vùng có dân số đông, quỷ đất ít và uy mô nông hộ.
- Vườn rừng thường ở nơi xa dân cư nên khó khăn trong quản lý,dễ bị chặt ph, lửa rừng và gia súc phá hại.
3.2. Vư ờn cây công nghiệp
+ Ưu điểm
- Việc chọn loại cây và bố trí kết hợp các loại với nhau đã đáp ứng được cả hai nhu cầu kinh tế và sinh thái, phát huy được các hiệu quả tích cực.
- Kết hợp trồng được các loại cây thân thảo trong những năm đầu của thời kỳ kiến thiết cơ bản đã giải quyết nguồn lương thực tại chỗ và tăng thu nhập cho người dân, thực hen được phương châm “ lấy ngắn nuôi dài” đầu tư trở lại cho vườn cây công nghiệp, đồng thời phát huy được hiệu quả che phủ đất, chống sói mòn.
 Mô hình nông - lâm - ngư kết hợp (Rừng tràm + lúa nước + cá + ong +VAC)
Trồng rừng tràm + lúa nước + cá + ong + VAC áp dụng cho các hộ gia đình nông dân tỉnhCà Mau. Đây là vùng đất phèn mạnh ngập nước sâu trung bình (ngập sâu 40 - 80cm). Đất có đủ hệ thống kênh mương trong khu vực để thoát phèn vào mùa mưa (rửa phèn nhờ nước mưa); đến mùa khô, không có nước ngọt để canh tác nông nghiệp và tiếp tục rửa phèn. Nước trong tất cả các sông và kênh đều bị mặn, độ mặn lên tới 25 - 28‰ trong mùa khô.
Diện tích đất cho mô hình khoảng 7 ha (100%) và được chia ra như sau:
- Diện tích chuyên canh lúa nước: 4.226m2P (7%)
- Diện tích trồng và kinh doanh rừng tràm: 15.114m2P (60,3%)
- Hệ thống mương đào rửa phèn, ém phèn và nuôi cá: 4.716m2P (8,3%)
- Hệ thống bờ bao: 5.944m2P (8,5%)
- Đất thổ cư + VAC: 2000m2P (2,6%).
 Rừng tràm:
Rừng tràm trồng quảng canh bằng phương pháp sạ hạt (nếu nước ngập trong) hay trồng
bằng cây con rễ trần (nếu nước ngập có màu đỏ đục) rừng tràm trồng với mật độ 20.000 - 30.000 cây/ha.
Trong 1 - 2 năm đầu, khi rừng tràm trồng chưa khép tán có thể trồng xen lúa nước.
Khi rừng tràm khép tán, thường sau khi trồng 3 năm, lúc đó ánh sáng lọt qua tán rừng tràm ít, không thể trồng xen lúa nước.
Khi rừng tràm phát triển tới giai đoạn các tán lá cây tràm đan xen nhau dầy đặc (độ chephủ gần bằng 1) thì cần tiến hành tỉa thưa (thường là vào năm thứ 6, kể từ khi trồng) để đảm bảo mật độ vừa phải cho cây tràm phát triển tốt, đồng thời tạo ra điều kiện thong thoáng cho mặt nước dưới rừng tràm để các loài cá đồng có điều kiện sinh sống dưới rừng tràm tốt hơn.
Trong khi chăm sóc rừng tràm, cũng cần làm sạch cỏ dại và các dây leo, thậm chí cả tỉa bớt cành của các cây tràm để mặt nước dưới rừng tràm được thông thoáng hơn.
Toàn bộ diện tích rừng tràm cũng được chia thành nhiều lô nhỏ và cố gắng tạo ra các lâm phần rừng tràm không đồng tuổi. Khi lô nào khai thác xong, phải tiến hành trồng lại ngay.
Như vậy, khu vực rừng tràm vừa có lâm phần mới trồng, vừa có lâm phần cây vừa khép tán, vừa có lâm phần gần đến tuổi khai thác v.v... tạo ra môi trường nước dưới rừng tràm thuận lợi cho cá, tôm phát triển, lại có thu nhập thường xuyên hơn về gỗ tràm và lương thực do trồng xen lúa nước nhằm giúp cho các hộ nông dân khắc phục được các khó khăn trong cuộc sống khi trồng rừng tràm.
 Lúa nước:
Lúa nước là cây rất mẫn cảm với điều kiện môi trường sống xung quanh. Đặc biệt trên đất phèn mạnh.
Khi pH của đất phèn mạnh < 3,5 thì trong đất có chứa rất nhiều chất độc hại với lúa nước, như ion Al+++ và Fe++.
Cho nên trên đất phèn mạnh, không thể cấy lúa hay sạ lúa ngay trong đầu mùa mưa, mà phải để sau nhiều đợt mưa to, cho nước mưa rửa bớt phèn, rồi mới cấy lúa... Do nước ngập sâu 40 - 60 cm nên các giống lúa cao sản ngắn ngày thường không phù hợp, người dân địa phương đã chọn giống lúa chịu phèn, cao cây, cứng rạ để cấy, thời gian sinh trưởng dài (150 ngày), do đó chỉ cấy được 1 vụ/năm, chủ yếu nhờ nguồn nước mưa. năng suất giống lúa mùa địa phương này thường chỉ đạt 1,5 - 2 tấn/ha/vụ.
Tuy nhiên ở một số nơi đất cao, nước có thể lưu thông, khả năng rửa phèn tốt và ngập nước nông < 40cm, người ta có thể sử dụng các giống lúa mới cao sản, ngắn ngày (100 ngày) để sản xuất 2 vụ lúa trong 1 năm, chủ yếu dựa vào nguồn nước trời, đạt năng suất tới 4,5 – 6 tấn/ha/năm.
Để trồng lúa nước trên đất phèn mạnh có năng suất khá, người nông dân địa phương còn có kinh nghiệm đào thêm các rãnh thoát phèn trong ruộng lúa (rãnh rộng 40cm, sâu 40cm, khớp với độ sâu phân bố của rễ lúa). Khoảng cách giữa các rãnh thoát phèn thưa hay mau, còn phụ thuộc vào mức độ phèn của đất, nhưng thường cách nhau từ 10m đến 20m, đào 1 rãnh thoát phèn, đất đào rãnh được đắp và san đều trên diện tích cấy lúa. Người dân địa phương gọi là phương pháp: Kê đất.
Trồng lúa nước trên đất phèn mạnh, cần bón thêm phân khoáng tổng hợp NPK.
Việc trồng lúa nước chuyên canh gắn liền với rừng tràm là một sự kết hợp độc đáo, vì người ta đã sử dụng nước dưới rừng tràm để sổ phèn cho đất trồng lúa và người ta lại lợi dụng nước dưới rừng tràm giầu chất hữu cơ để bón cho đất trồng lúa chuyên canh. Vì vậy, năng suất lúa cao hơn mà lượng phân bón sử dụng lại không nhiều.
 Nuôi cá đồng:

Ở những nơi đất ngập nước sâu hơn 50cm trở lên và thời gian ngập nước kéo dài hơn 6 tháng, sẽ có điều kiện thuận lợi để nuôi các loại cá nước ngọt trong mô hình nông – lâm ngư kết hợp.
Việc tận dụng các hệ thống mương bao, mương và rãnh thoát phèn và mặt nước được ngập toàn bộ diện tích rừng tràm + lúa nước đã đưa tiềm năng nuôi cá nước ngọt lên mức quan trọng có vai trò quyết định đến mức thu nhập hàng năm của các hộ nông dân.
 Trồng cây trên các bờ bao:
- Bờ bao là ranh giới phân chia đất quản lý, sử dụng giữa các hộ.
- Bờ bao chống quá trình tràn chua phèn từ nơi địa hình cao ở các nơi khác vào diện tích canh tác của mô hình.
- Tạo điều kiện rửa phèn của đất canh tác được thuận lợi và nhanh hơn.
- Trồng cây trên các bờ bao, tạo thành băng cản lửa, phòng và chống cháy rừng tràm.
- Tầng I (cây cao): So đũa (Serbania grandiflora) xen bạch đàn trắng.
- Tầng II: Chuối xiêm, đu đủ
- Tầng III: Thơm (dứa)
 Kinh doanh ong mật:
Các hộ gia đình nông dân ở khu vực rừng tràm U Minh đều biết gác kèo cho ong mật tự nhiên (ong khoái) làm tổ. Mật ong lấy từ rừng tràm có chất lượng cao hơn các loại rừng khác và cao hơn mật ong nuôi thùng. Hoa tràm có nhiều mật, mùa hoa lại kéo dài nhiều tháng trong năm, tuy hoa nở rộ vào tháng 5. Sản lượng mật thu được tuỳ từng trường hợp vào số lượng kèo gác, số tổ ong định cư, độ lớn của bầy ong tự nhiên. Bình quân 1 ha rừng tràm người ta có thể thu được từ 5 - 7 lít mật ong.
 Mô hình VAC (vườn - ao - chuồng) trên đất thổ cư
Mặc dù diện tích đất thổ cư sử dụng chỉ có 2000m2, nhưng phổ biến ở vùng đất phèn, nhân dân thường áp dụng mô hình VAC.
- Ao nuôi cá: Do nền đất thấp bị ngập nước, nên phải đào ao nuôi cá (chủ yếu là nuôi cá giống trong mùa khô để có cá giống thả vào mùa mưa). Đồng thời đào ao để lấy đất đắp nền nhà và xây dựng vườn cây ăn trái + rau xanh. . Mặt nước ao trồng rau muống, rau cần, làm giàn trồng mướp v.v...
- Cây ăn quả: Trồng chủ yếu mít, dừa, mãng cầu xiêm, cam, quýt, chanh, đu đủ. Rau xanh: Đậu leo, đậu bắp, cà chua, dưa leo, rau ngót, mùi tàu.
- Chăn nuôi: Chủ yếu là nuôi lợn, 1 hộ gia đình nuôi từ 2 - 3 con lợn, mỗi năm sản xuất được từ 6 - 8 tấn phân chuồng để thâm canh cây ăn trái và rau xanh mặc dù thu nhập từ nuôi lợn không cao. (Một số gia đình còn nuôi trăn (đặc sản) vì có nguồn thức ăn phong phú trong vùng là chuột, chúng phá hoại lúa và hoa màu).

 Hiệu quả kinh tế.
Kết quả về thu nhập kinh tế cho 1 hộ gia đình ngay trong 1, 2 năm đầu. (Theo Nguyễn Ngọc Bình)
- Năng suất lúa nước, giống lúa địa phương: 1 năm 1 vụ có năng suất 1,5 - 2 tấn/ha. Trừ mọi chi phí sản xuất còn được lãi: 400.000 - 1.750.000 đ/ha.
- Thu nhập về cá đồng: Chủ yếu dựa vào nguồn cá và thức ăn tự nhiên. Năng suất cá đồng 150 kg/ha/năm trị giá 450.000 đ/ha (giá bán ở địa phương 3000 đ/1kg cá tươi). Những năm sau đó mức độ phèn của đất và nước giảm, năng suất cá còn cao hơn.
- Thu nhập về vườn cây ăn trái và rau xanh trên 2000m2P đất thổ cư:
- Thu nhập về cây ăn trái: 8.860.000 đ/năm
- Thu nhập về rau xanh: 6.400.000 đ/năm (lao động chủ yếu của hộ gia đình)
- Thu nhập về chăn nuôi lợn (nuôi 3 con lợn): Hàng năm sản xuất được 8 tấn phân
chuồng để thâm canh vườn quả và rau xanh
Xuất chuồng 260 kg thịt lợn hơi trừ đi các chi phí về giống và thức ăn: 820.000 đ, còn được lời 740.000 đ/năm.
- Như vậy thu nhập của hộ gia đình trong các năm đầu: cao nhất là mô hình VAC trên đất
thổ cư (2000m2): 11 triệu đồng/năm.
Sau đó đến thu nhập về cá, thấp nhất là lúa, rừng tràm chưa cho thu nhập. Với mô hình sản xuất nông - lâm - ngư trên đất phèn mạnh này, nhằm mục tiêu trồng và khôi phục lại diện tích rừng tràm trên đất phèn mạnh, tạo thu nhập:
Sau 10 năm, thu hoạch rừng tràm, với năng suất gỗ: 10m3/ha/năm, trừ mọi chi phí sản xuất 1 ha rừng tràm cho lãi hơn 2 triệu/ha/năm. Vấn đề quan trọng hơn, rừng tràm còn có tác dụng chống quá trình phèn hoá, nâng cao độ phì của đất, làm cho năng suất lúa và cá ngày càng cao và bền vững.

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

hoangatien

New Member
Download Tiểu luận Tìm hiểu về hệ thống nông lâm kết hợp truyền thống

Download Tiểu luận Tìm hiểu về hệ thống nông lâm kết hợp truyền thống miễn phí





I. KHÁI NIỆM NÔNG LÂM KẾT HỢP
- NLKH là tên chung của những hệ thống sử dụng đất, trong đó các cây thân gỗ lâu năm (cây gỗ, cây bụi, cọ, tre, hay cây ăn quả, cây công nghiệp.) được trồng có suy tính trên cùng một đơn vị diện tích đất với cây thân thảo và/hay với vật nuôi, được kết hợp đồng thời hay kế tiếp nhau theo thời gian và không gian (Lundgren và Raintree, 1983).
- Theo ICRAF (1997) NLKH là một hệ thống quản lý tài nguyên tự nhiên năng động, lấy yếu tố sinh thái làm chính, qua đó cây được phối hợp trồng trên nông trại và vào hệ sinh thái nông nghiệp, để sản xuất bền vững và đa dạng, làm gia tăng các lợi ích kinh tế, xã hội và sinh thái cho người canh tác ở các mức độ, quy mô khác nhau.
- Nông Lâm kết hợp là một cách sản xuất kinh doanh có khoa học, nó kết hợp một cách hài hoà giữa cây nông nghiệp và cây lâm nghiệp giữa trồng trọt và chăn nuôi, sử dụng một cách đầy đủ nhất, hợp lý nhất để sản xuất ra nhiều sản phẩm mà không ảnh hưởng đến đát đai. Môi trường sinh thái bền vững, ít tốn chi phí mang lại hiệu quả kinh tế cao.
- Nông lâm kết hợp là một hệ thống quản lý đất đai trong đó các sản phẩm của rừng và trồng trọt được sản xuất cùng lúc hay kế tiếp nhau trên các diện tích đất thích hợp để tạo ra các lợi ích kinh tế, xã hội và sinh thái cho cộng đồng dân cư tại địa phương (PCARRD, 1979).
II. HỆ THỐNG NÔNG LÂM KẾT HỢP TRUYỀN THỐNG
- Cũng như nhiều Quốc gia khác trên thế giới, các cách canh tác nông lâm kết hợp đã có ở Việt Nam từ lâu đời, như các hệ thống canh tác nương rẫy truy ền thống của đồng bào các dân tộc ít người, hệ sinh thái vườn nhà ở nhiều vùng địa lý sinh thái trên khắp cả nước,. Từ thập niên 60 của thế kỷ trước, song song với phong trào thi đua sản xuất giỏi, hệ sinh thái VAC được nhân dân các tỉnh miền Bắc phát triển mạnh mẽ và lan rộng trên khắp cả nước dưới nhiều hình thức khác nhau, thích h ợp cho từng vùng sinh thái cụ thể; tiếp theo đó là các hệ thống RVAC và vườn đồi đựơc phát triển mạnh mẽ ở các khu vực dân cư miền núi. Tiếp theo đó các dự án của các tổ chức NGOs cũng như các dự án Quốc tế khác cũng đã giới thiệu nhiều cách canh tác b ền vững trên đ ất dốc trong đó có các mô hình nông lâm k ết hợp.
- Trong hai thập niên gần đây, phát triển nông thôn miền núi theo cách nông lâm kết hợp được Đảng và Nhà nước Việt Nam rất quan tâm và khuy ến khích. Quá trình tổ chức và thực hiện các chính sách định canh định cư, phát triển vùng kinh tế mới, và gần đây các chương trình 327, chương trình 5 triệu ha rừng (661), và chính sách phát triển kinh tế trang trại, chính sách xóa đói giảm nghèo, . đều có liên quan đến việc xây dựng và phát triển các hệ thống nông lâm kết hợp. Cho đến nay các thông tin, kiến thức về nông lâm kết hợp cũng được các nhà khoa học, các tổ chức tổng k ết, đáng giá dưới những góc độ khác nhau, tuy nhiên việc nghiên cứu về tương tác giữa phát triển nông lâm k ết hợp với môi trường tự nhiên,
kinh tế-xã hội cũng như thị trường của các sản phẩm nông lâm kết hợp còn được nghiên cứu chưa nhiều và còn thiếu đồng bộ cả ở mức vi mô và vĩ mô.
- Mặc dù, việc nghiên cứu và phát triển hệ thống nông lâm kết hợp trên thế giới đã có từ lâu, nhưng hệ thống này mới được du nhập vào Việt Nam vào những năm đ ầu thập niên 70 của thế kỷ trước. Hiện nay có nhiều quan điểm, định nghĩa khác nhau về hệ thống nông lâm kết hợp. Thuật ngữ này được sử dụng bao hàm một khái niệm ngày càng mở rộng, v ề đại thể, có thể hiểu nông lâm kết hợp là thuật ngữ dùng đ ể ch ỉ các h ệ thống sử dụng đất, ở đó có các cây, con nông nghiệp được bố trí kết hợp với các cây lâm nghiệp (cây gỗ) theo không gian hay luân canh theo thời gian và có sự tương tác giữa các thành phần của hệ cả mặt sinh thái
và kinh tế.
- Đây là các hệ thống canh tác được phát triển và tích luỹ kinh nghiệm qua nhiều thế hệ, được kiểm nghiệm qua thời gian. Chúng thường được phổ biến ở các cộng đồng người dân tộc sống ở gần hay ngay tại rừng.
- Nói cách khác, hệ thống nông lâm kết hợp truy ền thống là các kiểu canh tác nông lâm kết hợp được phát triển bởi chính người dân đ ịa phương. Điều này chứng minh rằng lý thuy ết về nông lâm kết hợp là mới mẻ nhưng thực ra là một kiểu canh tác đã được người dân sáng tạo ra từ lâu. Nhiều kỹ thuật nông lâm kết hợp đã được đúc kết, tồn tại và thử nghiệm bởi người nông dân qua hàng ngàn năm.
 



++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!

Tóm tắt nội dung:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN

KHOA SINH- KTNN

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ LÂM NGHIỆP

CHỦ ĐỀ: TÌM HIỂU VỀ HỆ THỐNG NÔNG LÂM KẾT HỢP TRUYỀN THỐNG

Giáo viên đánh giá: Thạc sĩ Hồ Tân

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Xuân Bách

Lớp: Nông Học B – K31

Quy nhơn, ngày 27 tháng 11 năm 2011

CÂU 2: Trình bày khái niệm, các yếu tố để xem xết 1 hệ thống là truyền thống? Trình bày và phân tích ưu nhược điểm hạn chế của các hệ thống nông lâm kết hợp mà anh chị biết ? cho biết tại địa phương mình có những hệ thống nông lâm kết hợp nào?

KHÁI NIỆM NÔNG LÂM KẾT HỢP

- NLKH là tên chung của những hệ thống sử dụng đất, trong đó các cây thân gỗ lâu năm (cây gỗ, cây bụi, cọ, tre, hay cây ăn quả, cây công nghiệp...) được trồng có suy tính trên cùng một đơn vị diện tích đất với cây thân thảo và/hay với vật nuôi, được kết hợp đồng thời hay kế tiếp nhau theo thời gian và không gian (Lundgren và Raintree, 1983).

- Theo ICRAF (1997) NLKH là một hệ thống quản lý tài nguyên tự nhiên năng động, lấy yếu tố sinh thái làm chính, qua đó cây được phối hợp trồng trên nông trại và vào hệ sinh thái nông nghiệp, để sản xuất bền vững và đa dạng, làm gia tăng các lợi ích kinh tế, xã hội và sinh thái cho người canh tác ở các mức độ, quy mô khác nhau.

- Nông Lâm kết hợp là một cách sản xuất kinh doanh có khoa học, nó kết hợp một cách hài hoà giữa cây nông nghiệp và cây lâm nghiệp giữa trồng trọt và chăn nuôi, sử dụng một cách đầy đủ nhất, hợp lý nhất để sản xuất ra nhiều sản phẩm mà không ảnh hưởng đến đát đai. Môi trường sinh thái bền vững, ít tốn chi phí mang lại hiệu quả kinh tế cao.

- Nông lâm kết hợp là một hệ thống quản lý đất đai trong đó các sản phẩm của rừng và trồng trọt được sản xuất cùng lúc hay kế tiếp nhau trên các diện tích đất thích hợp để tạo ra các lợi ích kinh tế, xã hội và sinh thái cho cộng đồng dân cư tại địa phương (PCARRD, 1979).

II. HỆ THỐNG NÔNG LÂM KẾT HỢP TRUYỀN THỐNG

- Cũng như nhiều Quốc gia khác trên thế giới, các cách canh tác nông lâm kết hợp đã có ở Việt Nam từ lâu đời, như các hệ thống canh tác nương rẫy truy ền thống của đồng bào các dân tộc ít người, hệ sinh thái vườn nhà ở nhiều vùng địa lý sinh thái trên khắp cả nước,... Từ thập niên 60 của thế kỷ trước, song song với phong trào thi đua sản xuất giỏi, hệ sinh thái VAC được nhân dân các tỉnh miền Bắc phát triển mạnh mẽ và lan rộng trên khắp cả nước dưới nhiều hình thức khác nhau, thích h ợp cho từng vùng sinh thái cụ thể; tiếp theo đó là các hệ thống RVAC và vườn đồi đựơc phát triển mạnh mẽ ở các khu vực dân cư miền núi. Tiếp theo đó các dự án của các tổ chức NGOs cũng như các dự án Quốc tế khác cũng đã giới thiệu nhiều cách canh tác b ền vững trên đ ất dốc trong đó có các mô hình nông lâm k ết hợp.

- Trong hai thập niên gần đây, phát triển nông thôn miền núi theo cách nông lâm kết hợp được Đảng và Nhà nước Việt Nam rất quan tâm và khuy ến khích. Quá trình tổ chức và thực hiện các chính sách định canh định cư, phát triển vùng kinh tế mới, và gần đây các chương trình 327, chương trình 5 triệu ha rừng (661), và chính sách phát triển kinh tế trang trại, chính sách xóa đói giảm nghèo, ... đều có liên quan đến việc xây dựng và phát triển các hệ thống nông lâm kết hợp. Cho đến nay các thông tin, kiến thức về nông lâm kết hợp cũng được các nhà khoa học, các tổ chức tổng k ết, đáng giá dưới những góc độ khác nhau, tuy nhiên việc nghiên cứu về tương tác giữa phát triển nông lâm k ết hợp với môi trường tự nhiên,

kinh tế-xã hội cũng như thị trường của các sản phẩm nông lâm kết hợp còn được nghiên cứu chưa nhiều và còn thiếu đồng bộ cả ở mức vi mô và vĩ mô.

- Mặc dù, việc nghiên cứu và phát triển hệ thống nông lâm kết hợp trên thế giới đã có từ lâu, nhưng hệ thống này mới được du nhập vào Việt Nam vào những năm đ ầu thập niên 70 của thế kỷ trước. Hiện nay có nhiều quan điểm, định nghĩa khác nhau về hệ thống nông lâm kết hợp. Thuật ngữ này được sử dụng bao hàm một khái niệm ngày càng mở rộng, v ề đại thể, có thể hiểu nông lâm kết hợp là thuật ngữ dùng đ ể ch ỉ các h ệ thống sử dụng đất, ở đó có các cây, con nông nghiệp được bố trí kết hợp với các cây lâm nghiệp (cây gỗ) theo không gian hay luân canh theo thời gian và có sự tương tác giữa các thành phần của hệ cả mặt sinh thái

và kinh tế.

- Đây là các hệ thống canh tác được phát triển và tích luỹ kinh nghiệm qua nhiều thế hệ, được kiểm nghiệm qua thời gian. Chúng thường được phổ biến ở các cộng đồng người dân tộc sống ở gần hay ngay tại rừng.

- Nói cách khác, hệ thống nông lâm kết hợp truy ền thống là các kiểu canh tác nông lâm kết hợp được phát triển bởi chính người dân đ ịa phương. Điều này chứng minh rằng lý thuy ết về nông lâm kết hợp là mới mẻ nhưng thực ra là một kiểu canh tác đã được người dân sáng tạo ra từ lâu. Nhiều kỹ thuật nông lâm kết hợp đã được đúc kết, tồn tại và thử nghiệm bởi người nông dân qua hàng ngàn năm.

- Các hệ thống nông lâm kết hợp truy ền thống ở vùng núi Việt Nam ở mấy dạng sau:

Các hệ thống nông lâm kết hợp truyền thống

Hệ thống bỏ háa/nương rẫy cải tiến

- Có người cho đây là hình thức luân canh rừng tái sinh – nương rãy. Đây là hình thức lâu đời của nông lâm kết hợp nhằm khắc phục các ảnh hưởng tiêu cực của canh tác nương rẫy liên tục, tạo điều kiện để rừng phục hồi độ phì đất. Thực ra họ luân canh từ mảnh đất này sang mảnh đất khác theo thời gian đã được suy tính trước, kỹ thuật này tỏ ra bền vững qua nhiều năm. M ấu chốt của sự bền vững của kỹ thuật canh tác này là thời gian ngừng canh tác để đất được phục hồi, họ thường lui tới nương bỏ hóa để thu hái các sản phẩm trên đất bỏ hóa; như ở Tây Nguyên, nhân dân thường coi rẫy bỏ hóa củ a họ như nơi dự trữ rau, củi đun, trái cây, lương thực, thuốc chữa bệnh,... Khi mật độ dân cư còn thưa thớt, đất đai canh tác nhiều thì thời gian để đ ất nghỉ dài. Trong bố i cảnh hiện nay dân số đông, cộng với chính sách giao đất giao rừng đến hộ nông dân đã hạn chế phần nào đất canh tác của người dân địa phương.

- Để khắc phục tình trạng thiếu đất, ở nhiều nơi đồng bào đã trồng các loài cây cải tạo đất trong giai đo ạn bỏ hóa. Cách làm này vừa rút ngắn được thời gian bỏ hóa vừa cung cấp củi đun cho nhân dân. Nhiều nơi chính quy ền địa phương có sáng kiến qui vùng sản xu ất nương rẫy như ở Nghệ An, Sơn La… chính quy ền địa phương cùng nông dân chia đất canh tác ra nhiều lô để trồng luôn canh cây hoa màu và các cây cải tạo đất, thời gian canh tác từ 2-5 năm phụ thuộc

vào số lô luân canh, tổng diện tích rẫy và khả năng sinh trưởng củ a cây cải tạo đất.

+ Ưu điểm

Đưa loại cây thân gỗ họ đậu, có khả năng cố định đạm vào gây trồng đã rút ngắn.

-

Hệ thống rừng và ruộng bậc thang

- Hệ thống rừng và lúa trồng theo ruộng bậc thang tồn tại từ rất lâu ở Việt Nam, được áp d...
Mình đang cần tài liệu này. Bạn có thể cho mình link dowload được không?
 
Sửa lần cuối:

Các chủ đề có liên quan khác

Top