baby_uyen2003

New Member
MỞ ĐẦU Lí do chọn đề tài
Văn chương bình dân - nhất là ca dao, là một cuộn phim ghi lại những sinh hoạt hằng ngày, những tư tưởng, tình cảm, diễn biến qua nhiều thời (gian) kì của nhân dân một cách trung thực và đầy đủ nhất. Nói rằng ca dao phản ánh nét nặt của tất cả người trong cuộc sống với nhiều khía cạnh cũng là ví dụ khá chính xác. Bởi vì, văn chương bình dân là một loại văn hiện thực khá chân xác: Văn tức là người, văn chương bình dân được sản sinh, lưu truyền lại, cũng chính nhờ có yếu tố liên hệ máu thịt với đời sống của tất cả tất cả người, được tất cả người chấp nhận.

Đọc lại ca dao Việt Nam, ai cũng dễ nhận thấy rằng, tư tưởng Phật giáo vừa được đề cập đến, trình bày dưới nhiều khía cạnh tình cảm, suy nghĩ khác nhau vừa chiếm một số lượng lớn, quan trọng. Chúng ta có thể nói rằng ngoài tư tưởng Phật giáo, Các hệ thống tư tưởng khác: Trừ suy tư ban đầu về tín ngưỡng sai lạc, không có một tư tưởng nào, giáo lí nào được nhắc đến nhiều như vậy. Phật giáo là tôn giáo tiêu biểu nhất trong ca dao, nơi thể hiện niềm tin của quần chúng.

Vì vậy với đề tài “Yếu tố Phật giáo trong ca dao” người viết muốn đi vào những biểu hiện cụ thể của chân lí về nỗi khổ và sự giải thoát để khẳng định sự ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Phật giáo trong ca dao. Tư tưởng Phật giáo được tất cả người tiếp nhận và có ảnh hưởng trực tiếp đến tất cả sinh hoạt hằng ngày, nó gắn liền với quần chúng, được quần chúng đúc kết và thể hiện qua các lời hát dân gian.

Kho tàng ca dao phong phú của người Việt là mảnh đất để người viết khai vỡ những nhận định trên. Đồng thời, qua đề tài này người làm tiểu luận hi vọng có thể giải KẾT phần nào tiến trình tư tưởng con người, khởi từ một niềm tin thô thiển, dẫn đến niềm tin về tín ngưỡng, và sau cùng, vừa tìm ra tư tưởng Phật giáo chân chính như một nguồn an ủi vô tận, niềm vui sống trong sáng và hạnh phúc vĩnh hằng mà con người đang khao khát, hi vọng trong cuộc đời vừa phải chịu nhiều thống khổ.

1.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.

1.2.1. Đối tượng nghiên cứu.

Đề tài đi vào nghiên cứu “Yếu tố Phật giáo trong ca dao” mà nét đặc trưng là qua những biểu tượng và chân lí của Phật giáo được biểu hiện qua những câu ca dao.

1.2.2. Phạm vi nghiên cứu.

Phạm vi nghiên cứu của đề tài là những câu ca dao Phật giáo in trong cuốn “Ca dao tục ngữ Phật giáo Việt Nam”, NXB TP. Hồ Chí Minh, 2005.

1.3. Lịch sử vấn đề.

Từ ngàn xưa, Phật giáo vừa tô bồi cho văn hóa đất nước chúng ta, vừa trở thành văn hóa của dân tộc. Như vậy, Phật giáo vừa cung cấp cảm hứng, là cội nguồn chính của sáng tạo và truy nhận tập thể trong chuyện hình thành ca dao tục ngữ. Vị trí ca dao và giá trị quan trọng của yếu tố Phật trong đời sống và trong quan niệm của nhân dân vừa chứng tỏ sức ảnh hưởng và tầm quan trọng của ca dao Phật giáo. Dưới sức tác động mạnh mẽ của tiếng hát quần chúng, dấu ấn Phật giáo cũng có những biến đổi theo văn hóa dân gian để phù hợp với tâm tư nguyện vọng đến người dân. Ca dao Phật giáo có một tiếng nói riêng trong nền văn học dân gian cũng như trong giới phê bình, nghiên cứu văn học. Những cuốn sách và những bài viết vừa ra đời với sự lũy mặt của ca dao Phật giáo.

Đinh Gia Khánh trong cuốn “Văn học dân gian Việt Nam” vừa đề cập đến ảnh hưởng của Phật giáo như một yếu tố tạo nên tính chất trào phúng trong văn học dân gian. Ca dao dùng những biểu hiện suy đồi, trụy lạc của nhà chùa để cất lên tiếng cười mỉa mai, châm biếm sâu cay. Tác giả vừa dẫn ra các bài ca dao có hình ảnh Chùa, Bụt, ông Thích Ca nhưng tất cả các hình ảnh đó được miêu tả bằng nét trần tục đối lập với chân lí cao cả và vẻ trang nghiêm của nơi cửa Chùa, Phật. Đó là sư hổ mang, thấy cúng ê a mà óc chỉ nghĩ đến xôi gà… đồng thời (gian) tác giả vừa chỉ ra cái tục của yếu tố tôn giáo trong ca dao trào phúng “Yếu tố tục trong ca dao trào phúng không những chỉ là một phương tiên nghệ thuật, mà thường còn mang ý nghĩa xã hội: đem ghép những cái rất tục vào những cái rất nghiêm của trật tự phong kiến, lễ giáo phong kiến, cũng là một trong những mảng đấu tranh mạnh mẽ và có hiệu quả”. [3.471]

Cao Huy Thuần, có bài viết “Phật giáo Việt Nam qua phong dao tục ngữ” trên trang web . Những trang viết là cảm xúc khi tác giả tiếp cận với bản thảo sách gồm bốn trăm lin tám câu phong dao tục ngữ mà tác giả nghĩ có liên hệ với Phật giáo . Qua phân tích những câu ca dao, tục ngữ đó tác giả vừa trình bày những chân lí, triết lí của đạo Phật mà quần chúng gửi gắm trong ca dao, đó là: khổ, thiện, là ngiệp báo, nhân quả, đó là con đường tu tâm để vươn lên, cũng chính là ước mơ khát vọng của quần chúng. Đồng thời (gian) tác giả cũng nhấn mạnh ảnh hưởng của Phật giáo trong ca dao cũng như chính ca dao vừa mang nét mới cho Phật giáo “ đạo Phật trong phong dao tục ngữ không thiên về triết lí, không đặt nặng trí tuệ: ngay cả thiền, số lượng sao lục cũng không nhiều, tính chất bác học còn nằm trong nguyên văn chữ Hán. Đạo Phật của phong dao tục ngữ là đạo Phật của đạo đức”.

Xuân Thành- Nguyễn Văn Tài – Nguyễn Hữu Quế với cuốn “Hỏi đáp văn chương” phần văn học dân gian- truyền miệng .Đây là cuốn sổ tay hữu ích của mỗi người về nền văn học truyền miệng. Cuốn sách có tám chương vừa khái quát từ nguồn gốc đến sự phát triển của nền văn học dân gian Việt Nam. Trong đó chương hai đề cập đến các học thuyết Nho, Lão và triết học dân tộc. Những câu giải đáp vừa chứng minh cho bạn đọc về sự ảnh hưởng lớn của đạo Phật trong văn học dân gian. “Phật giáo đi sâu vào quần chúng đến nỗi trở thành nguồn cung cấp cảm hứng sáng tác cho các tác giả dân gian”[6. 20].

Nghiên cứu về ca dao Phật giáo không chỉ gắn liền với tên tuổi của giới nghiên cứu phê bình hoạt động chuyên ngành văn, mà còn là sự đóng lũy nhiệt tình của giới tăng ni, Phật tử trong nhà Chùa.

Đáng chú ý là công trình sưu tập “Ca dao tục ngữ Phật giáo Việt Nam” của hòa thượng Lệ Như Thích Trung Hậu, NXB TP. Hồ Chí Minh, 2005. Cuốn sách bao gồm 2000 câu ca dao tục ngữ mà tác giả sưu tầm, chọn lọc qua các tài liệu văn học, qua các vị Trưởng Lão, các vị thiện tri thức, đồng sự và quần chúng Phật tử. Trong cuốn sách, chúng ta có thể tìm thấy những câu ca dao hay nói đến Phật, đến Pháp, đế chư Tăng, nhiều câu có nhắc đên một số thuật ngữ Phật giáo như nhân duyên, quả báo, công đức, thiện ác, hiếu thảo, hào quang, chân lí… và nhiều câu phản ánh các quan niệm thiện ác thông thường, thậm chí nhiều câu diễn dãi chưa đúng mức về Phật giáo cũng được xem là có liên hệ với Phật.

Hòa thượng Thích Đồng Văn với bài viết “Ảnh hưởng của Phật giáo trong văn học dân gian Việt Nam” trên trang web đã có cái nhìn tổng thể về Phật giáo và dấu ấn Phật giáo trong các thể loại văn học dân gian. Hầu như nội dung các thể loại đều hiện lòng mến mộ và niềm tin của quần chúng nhân dân với tôn giáo. Đạo Phật trong văn học dân gian đặc biệt là ca dao, gần gủi, thân thiết với người bình dân. Những biểu hiện của Phật giáo phong phú nhất ở thể loại ca dao. “Phật giáo trong văn học dân gian là tổng hợp kết tinh những triết lí dân gian có ý nghĩa nhân sinh cao đẹp, thấm đượm tình người. Nguyên lí của Phật giáo trong văn học dân gian là ước mơ của con người trước cuộc sống”.

Bài viết “Tư tưởng Phật giáo trong ca dao Việt Nam” của hòa thượng Mang Viên Long trên trang web thêm một lần nữa chứng minh cho sự phong phú của quan điểm, triết lí Phật giáo trong ca dao. Đó là sự phong phú của những câu ca dao viết về Chùa chiền và khuyên dạy thuyết nhân quả.

Trên đây là những công trình có liên quan đến đề tài mà chúng tui thu thập được. Đối với một đề tài tôn giáo lớn như Phật giáo và trong một thể loại rộng lớn như ca dao chắc chắn còn nhiều công trình nghiên cứu khác nhau, nhưng do điều kiện và trình độ hạn chế nên chúng tui không thể tìm hiểu và tiếp cận hết các công trình để hiểu thêm về hiểu thêm về sự phong phú của đề tài. Nhiều người vừa nghiên cứu những vấn đề cụ thể, công trình cụ thể, trên cơ sở tiếp thu ý kiến của những người đi trước tui đi vào nghiên cứu đề tài “Yếu tố Phật giáo trong ca dao”.

4 . Phương pháp nghiên cứu:

Trong đề tài này chúng tui sử dụng một số phương pháp chủ yếu sau:

- Phương pháp thống kê.

- Phương pháp so sánh, đối chiếu.

- Phương pháp phân tích.

- Phương pháp tổng hợp.

5. Cấu trúc đề tài:

Bài tiểu luận, ngoài phần mở đầu, kết luận và mục tài liệu tham khảo chúng tui chia nội dung ra làm hai chương sau:

Chương I: Những vấn đề khái quát chung.

Chương II: Yếu tố Phật giáo trong ca dao



NỘI DUNG

Chương 1: Những vấn đề khái quát chung

1.1.Khái quát về Phật giáo.

1.1.1.Nguồn gốc và quan điểm của Phật giáo

Phật giáo là một được (Shakyamuni) truyền giảng ở miền bắc vào . Do được truyền bá trong một thời (gian) gian dài ra nhiều nơi đến nhiều chủng tộc nên lịch sử phát triển của đạo Phật khá đa dạng về các bộ phái cũng như các nghi thức hay phương pháp tu học. Ngay từ buổi đầu, Thích Ca, người sáng lập đạo Phật, vừa tổ chức được một giáo hội với các giới luật chặt chẽ. Nhờ vào sự uyển chuyển của giáo pháp, đạo Phật có thể KẾT nghi với nhiều hoàn cảnh xã hội, nhiều dạng người, nhiều tập tục ở các thời (gian) kỳ khác nhau, và do đó ngày nay Phật giáo vẫn tiếp tục tồn tại và ngày càng phát triển ngay cả trong các nước có nền khoa học tiên tiến như .

Sự ra đời của Phật giáo trước tiên thể hiện tinh thần phản kháng củangười nghèo, chống lại thuyết bốn đẳng cấp của đạo Bà la môn, tìm con đường giải thoát con người khỏi nỗi khổ triền miên trong xã hội nô lệ Ấn Độ.

Phật giáo là một yếu tố tâm linh. Thực chất của đạo Phật là một học thuyết về nỗi khổ và sự giải thoát. Khuyên con người sống tốt đời, đẹp đạo.

1.1. 2. Phật giáo ở Việt Nam

Phật giáo Việt Nam Là Phật giáo được bản địa hóa khi du nhập từ vào Việt Nam , Phật giáo Việt Nam mang những đặc điểm khác biệt so với và Phật giáo của các nơi khác trên thế giới. Phật giáo là tôn giáo có ảnh hưởng sâu rộng lớn nhất ở Việt Nam.

Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, ngay từ đầu với truyện cổ tích học đạo của một nhà sư Ấn Độ. (thuộc tỉnh ) là trị sở của quận sớm trở thành trung tâm Phật giáo quan trọng. Các truyền thuyết về Phật và xuất hiện cùng với sự giảng đạo của Khâu Đà La (Ksudra) trong khoảng các năm -

Do tiếp thu Phật giáo trực tiếp từ nên từ Buddha (bậc giác ngộ) được phiên âm trực tiếp thành "Bụt", từ "Bụt" được dùng nhiều trong các truyện dân gian. Phật giáo Việt Nam lúc ấy mang màu sắc của , Bụt được coi như một vị thần chuyên cứu giúp người tốt, trừng phạt kẻ xấu. Sau này, vào thế kỷ thứ VI- V, do ảnh hưởng của đến từ mà từ "Bụt" bị mất đi và được thay thế bởi từ "Phật". Trong , từ Buddha được phiên âm thành "Phật đà "Phật đồ" rồi được rút gọn thành "Phật.

Phật giáo ăn sâu, bám rễ vào Việt Nam từ rất sớm. Đến đời , , Phật giáo phát triển cực thịnh, được coi là quốc giáo ảnh hưởng đến tất cả tất cả vấn đề trong cuộc sống. Đến đời thì Nho giáo được coi là quốc giáo và Phật giáo đi vào giai đoạn suy thoái. Đến đầu thế kỉ XVII, vua cố gắng chấn hưng đạo Phật , chỉnh đốn xây chùa, nhưng vì mất sớm nên chuyện này không có nhiều kết quả. Đến thế kỉ XX, mặc dù ảnh hưởng mạnh của quá trình Âu hóa, Phật giáo việt Nam lại phát triển mạnh mẽ khởi đầu từ các đô thị miền Nam với các đóng lũy quan trọng của các nhà sư Khánh Hòa và Thiện Chiếu.

1.2. Khái niệm ca dao

Ca dao là một từ Hán – Việt, theo từ nguyên ca là bài hát có chương khúc, giai điệu, dao là bài hát ngắn không có giai điệu, chương khúc.

Ca dao theo các cụ định nghĩa là: “bài hát ngắn lưu hành trong dân gian” tức là dân ca theo quan niệm thời (gian) nay, thì ngoài danh từ đó còn có phong dao: những câu hát dân gian tả phong tục, tập quán. Đồng dao: là bài hát của trẻ em, dân dao là ca dao do quần chúng làm ra. Cuối cùng, lại có cả một danh từ, có vẻ như nói tắt của hai chữ tục ngữ - ca dao.

Theo cách hiểu thông thường nhất, thì ca dao là lời của các bài hát dân ca vừa tước bỏ đi tiếng đệm, tiếng láy,… Sự phân biệt giữa ca dao và dân ca chỉ là chỗ khi nói đến ca dao người ta thường nghĩ đến lời thơ dân gian, còn khi nói đến dân ca người ta thường nghĩ đến những làn điệu, những thể thức nhất định… Khái niệm ca dao vừa được quy định dùng để chỉ bộ phận cốt lõi nhất, đó là những câu hát vừa trở thành cổ truyền của nhân dân.

Ngay bản thân tên gọi ca dao và dân ca gây nên cách hiểu không rạch ròi. Cả hai tên gọi đều có yếu tố ca, một bên là dân ca, một bên là ca dao. Gọi ca dao để chỉ “một thể thơ dân gian” không được thỏa đáng trong thực tế, ca dao có nhiều thể thơ như: lục bát, song thất lục bát, thể vãn,.. Gọi ca dao cho “tất cả những sáng tác mang phong cách những câu hát cổ truyền” là quan niệm ca dao với một hàm quá rộng, bao gồm ca dao mới, gọi ca dao là “thơ dân gian” lại vô tình đồng nhất giữa sáng tác văn học viết và sáng tác dân gian, ca dao là thơ nhưng không phải là thơ bởi ca dao là “sáng tác theo – điệu nói” (Trần Đình Sử).

Theo Tiến sĩ Lê Đức Luận thì “Ca dao là lời ca các câu hát dân gian và những sáng tác ngâm vịnhđược lưu truyền trong dân gian và gọi chung là lời ca dân gian”.

Như vậy, qua nhiều cách định nghĩa ca dao ta thấy, với mảng sáng tác này khó tìm được một khái niệm chung nhất. Có nhiều cách hiểu, cách định nghĩa khác nhau về ca dao mà cách nào cũng có lí. Ca dao là những lời thơ dân gian được truyền miệng từ đời này sang đời khác và được lưu truyền đến ngày nay. Ca dao cũng đúc kết những kinh nghiệm và triết lí sống của nhân dân. Nội dung ca dao rất rộng lớn lớn nó phản ánh nhiều phương diện, khía cạnh cuộc sống người Việt, từ tình cảm gia đình, tình yêu nam – nữ, các mối quan hệ xã hội. Nó không chỉ là bức tranh sinh động về xã hội đương thời (gian) mà còn là tiếng nói ân tình đầy hấp dẫn và sâu sắc của những con người khác nhau trong xã hội xô bồ rộng lớn lớn.

Chương II. Yếu tố Phật giáo trong ca dao.

2.1. Khúc dạo đầu – Phật giáo từ văn học dân gian đến ca dao.

Chức năng của văn học là phản ánh hiện thực của cuộc sống. Đời sống của con người nhất là đời sống tinh thần có một đức tin là một mảng đời sống tồn tại trong hiện thực cuộc sống. Chính vì thế nội dung của tục ngữ, ca dao, ngụ ngôn, truyện cổ tích, truyện cười thuộc kho tàng văn học dân gian vừa đề cập đến nội dung tôn giáo, phản ánh nội dung tôn giáo một cách sâu sắc. Phật giáo là một thực thể tinh thần, vừa hiện diện, tồn tại hàng ngàn năm cùng dân tộc Việt Nam, trở thành một phần của tâm linh dân tộc, một thành tố trọng yếu về văn học tư tưởng. Từ nền văn hóa cực thịnh của triều đại Lí – Trần đến kho tàng văn học dân gian đều nên bật lí tưởng thương người, yêu đời của Phật giáo. Từ khi du nhập vào nước ta thời (gian) Bắc thuộc, Phật giáo vừa được quần chúng nhân dân chấp nhận vì tinh thần bình đẳng, tình yêu thương đồng loại, quần chúng lao khổ mà Phật giáo phản ánh phù hợp với lí tưởng giải phóng của nhân dân ta. Văn học dân gian chính là minh chứng sót lại chứng tỏ lòng mến mộ và yêu mến tinh thần của đạo Phật.

Ai sinh ra và lớn lên cũng vừa một lần từng nghe câu chuyện “Tấm Cám”, truyện “Cây tre trăm đốt”, những lần xuất hiện của Bụt là dấu ấn của Phật giáo. Ông Bụt trong “Tấm Cám” vừa hình tượng hóa lòng cưu mang của người Việt bằng màu sắc của Phật tổ. Ngay đoạn kết của truyện “Tấm Cám” cũng mang tư tưởng Phật giáo của nhân dân “thiện thắng ác”, “chính nghĩa thắng gian tà”, Tấm sống lại và trở thành một người sau bao lần bị tiêu diệt. Ở đây thuyết luân hồi của Phật vừa trở thành chỗ phụ thuộc vững chắc cho phương tiện nghệ thuật, giúp nhân dân ta thực hiện ước mơ công bằng xã hội và liên tưởng thẩm mĩ của mình một cách thuận lợi trong trí tưởng tượng và bằng trí tưởng tượng sáng tạo. Nét đặc sắc của truyện cổ tích mang màu sắc Phật giáo còn trình bày những mẫu người theo quan niệm nhà Phật. Câu chuyện quan âm Thị Kính hay “Quan Hải Nam Âm” trình bày một mẫu người trải qua những đoạn đường gian truân, bất hạnh trong cuộc đời, nhưng cuối cùng lại đạt thành viên mãn. Điều này chứng tỏ một khi tâm vừa quyết, chí vừa bền thì ắt phải đạt đến mục đích vậy.

Truyện cổ tích nói chung hay truyện cổ mang nhiều màu sắc hoang đường và huyền ảo nói riêng, nó vừa thể hiện một nét tâm lí tích cực của nhân dân đó là yêu chính nghĩa và mong muốn sống đẹp hơn giữa đời, vươn tới sự thanh cao của những người coi đạo Phật là chân tu.

Tôn giáo là một thế giới tinh thần thiêng liêng để con người gửi gắm đức tin nhưng một khi tôn giáo có những biểu hiện sa sút thì nhân dân không thể chấp nhận. Lúc đó ý thức phê phán để xây dựng của nhân dân là mượn tác phẩm dân gian để hình thành tiếng cười đả kích những tồn tại ấy. Nếu truyện ngụ ngôn phản ánh sự vươn lên không ngừng của tư duy trong nhận thức xã hội loài người thì truyện cười là sản phẩm của trí tuệ luôn phát hiện ra những mặt mâu thuẫn của xã hội ấy. Sư có kẻ hổ mang có kẻ thực lòng mộ đạo, đều được tác giả dân gian đem ra để chê cười. Không ít những kẻ sư sãi là những kẻ khẩu Phật tâm xà, không ít các hạng thầy – thầy đồ gàn – thầy lăng băm, thầy bói, thầy cúng là những kẻ giả đạo đức hay bịp bợm. Họ vẫn ra vẻ mình có giá trị to lớn hơn là mình có trong thực tế. Truyện dân gian có những truyện cười về nhà sư phá giới như “Thầy lang và thầy bói”, “Nhà có động”, “Đẻ ra sư”, Nam mô boong”, là những truyện có ý nghĩa hài hước sâu sắc. Tác giả dân gian tìm thấy và khai thác nhiều khía cạnh trong mâu thuẫn giữa bên người và thực chât của sư sãi và các hạng thầy để gây cười.

Nhìn chung, kho tàng truyện cười mang ảnh hưởng Phật giáo có những ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. Truyện đả kích nhằm xây dựng những tình cảm lành mạnh. Dưới con mắt nhân gian, tăng ni là những mẫu người mẫu mực để bênh vực đạo đức, không thể chấp nhận những chuyện sai ở họ. Và vì thế, họ vừa đấu tranh cho luân lí đạo đức xã hội bằng tiếng cười chua cay và thâm thúy.

Ở văn học dân gian, tục ngữ cũng là một kho tàng triết lí ngầm ẩn của đạo Phật, đằng sau những câu chữ ngắn gọn và xúc tích. Triết lí nhân quả của đạo Phật cũng được dân gian Việt Nam hiểu một cách giản dị như “ở hiền gặp lành”, “gieo gió gặp bão”, “không có lửa làm sao có khói”.

Tinh thần bác ái, bố thí của đạo Phật được cụ thể vào thực tin bằng tinh thần đoàn kết tương thân, tương ái “môi hở răng lạnh” hay “máu chảy ruột mềm”.

Giáo lí luân hồi nghề báo được tục ngữ thể hiện hóa bằng chính bản thân như “con là nợ, vợ là oan, cửa nhà là nghề chướng”, “đời cha ăn mặn, đời con khát nước”. Đó là tinh thần Phật giáo trong tục ngữ là một tổng hợp kết tinh của những triết lí dân gian có ý nghĩa nhân sinh cao đẹp thấm đượm tình người. Nguyên lí cao đẹp của Phật giáo trong tục ngữ nhằm thể hiện khát vọng của con người bình dân trước cuộc sống, gần với tục ngữ, những khúc hát về tư tưởng Phật giáo trong ca dao vô cùng phong phú và đa dạng, thế giới Phật pháp ca dao từ những hình tượng quen thuộc đến những luân lí đạo đức được nhân dân gói trọn và gửi tâm linh vào ca dao. Theo thu thập trong tuyển tập “ca dao - tục ngữ Việt Nam” của hòa thượng Lệ Như Thích Trung Hậu có 2000 câu ca dao về đạo Phật. Đó mới chỉ là thống kê sơ bộ và có thể chưa đầy đủ nhưng cũng vừa chứng minh cho sự đóng lũy lớn lao của tinh thần Phật giáo trong thể loại ca dao. Những tư tưởng tốt đẹp của Phật giáo được nhân dân chọn lọc, tiếp nhận, phù hợp với nhân sinh quan của người dân. Theo yêu cầu của đề tài, chúng ta lạm bàn về Phật giáo trong văn học dân gian để có một cái nhìn khách quan và khái quát khi đi tiếp về những biểu hiện đặc sắc của yếu tố Phật giáo trong ca dao mà người làm tiểu luận mong muốn giải đáp tiếp. Chỉ có một điều mà người viết luôn muốn khẳng định là “Văn học Việt Nam vô cùng phong phú như những kì hoa dị thảo tô thắm vườn văn học Việt Nam nói chung và tinh thần Phật giáo trong ca dao cùng hòa quyện với văn học dân tộc lũy phần tăng giá trị tư tưởng văn hóa dân tộc, bồi đắp cho nền văn hóa dân tộc được trường tồn”.

Nhìn lại nội dung một số sáng tác văn học dân gian ở nhiều thể loại tục ngữ, truyện ngụ ngôn, truyện cổ tích, truyện cười trong quan hệ, ảnh hưởng với tinh thần Phật giáo ta thấy ít nhiều văn học dân gian phản ánh một thái độ sống, có một sức tác động mãnh liệt trong đời sống tín ngưỡng, tạo nên một sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bản sắc dân tộc và tư tưởng Phật giáo. Phật giáo vừa có ảnh hưởng không nhỏ, gắn bó mật (an ninh) thiết với tâm hồn người Việt.

Qua một vài nét tìm hiểu về ảnh hưởng của Phật giáo trong nền văn học dân gian, nơi mà người viết lĩnh hội được và “vịn” vào đó để có thể làm sáng tỏ những dấu ấn của Phật giáo, vấn đề cơ bản mà người viết khao khát giải mã.

2.2. Dấu ấn Phật giáo trong ca dao.

2.2.1. Ca dao – Bức tranh sinh động về những biểu tượng quen thuộc của Phật giáo.

Phật giáo là một học thuyết về nỗi khổ và sự giải thoát, Phật giáo không phải là một sự mê tín, thậm chí không phải là một sự thờ cúng. Đó là quan niệm của cái tâm. Đến với Phật giáo là đến với cõi Niết bàn của niềm tin thanh cao, cực lạc. Những lời răn dạy của đạo Phật chỉ có cái tâm mới làm theo được. Từ lâu trong tâm thức con người khi nhắc đến Phật giáo là liên tưởng ngay đến những biểu tượng quen thuộc như Chùa, Phật tổ, Hoa sen, Bụt, cõi Niết bàn. Cái ám ảnh của tâm linh Phật trong người bình dân vừa thể hiện nhiều trong ca dao, như một niềm bày tỏ lòng ngưỡng mộ và sùng đạo. Đặc biệt là biểu tượng của Phật tổ được nhân dân trìu mến gọi là Bụt.

Với ca dao, hình tượng Bụt xuất hiện với nhiều ý nghĩa phong phú trong một phạm vi rộng. Ông Bụt không chỉ là hình tượng biểu trưng tôn giáo tín ngưỡng dân gian mà vừa đi sâu vào đời sống hằng ngày của người dân để chuyển hóa nhiều ý nghĩa khác nhau. Đạo Phật đến nước ta trong hoàn cảnh nhân dân ta bị nô lệ Bắc thuộc. Người dân Việt Nam lúc bấy giờ chỉ cầu mong một cuộc sống tự do, thanh bình, giải thoát khỏi những gông kìm ngoại quốc. Trong hoàn cảnh đó, Phật giáo vừa xuất hiện và mau chóng trở thành chỗ phụ thuộc tinh thần cho một nước bị mất nước. Phật giáo hòa nhập và trở thành niềm tin. “Phật – tiếp phạn là Buddha (âm Hán Việt là Phật Đà)” nghĩa là Bậc giác ngộ viên mãn. Từ tiếng phạn Buddha, người Việt Namxưng gọi là Bụt.

Đức Phật trong tôn giáo vừa trở thành ông Bụt trong dân gian. Trong một làng ông Bụt cũng có một vị trí như thần Hoàng Làng của riêng ngôi làng ấy. Dân trong làng ai ai cũng tôn kính, trang nghiêm khi nhắc đến Bụt:

Chùa nát có Bụt vàng Tuy rằng miếu đổ, thần Hoàng còn thiêng. Ca dao vừa cho ta thấy mức độ tin tưởng tuyệt cú đối của người dân lao động vào ông Bụt – vị thần tối cao của ngôi làng mà họ cư trú.

Khi xuất hiện dưới lớp nghĩa một biểu tượng tôn giáo và tín ngưỡng dân gian, hình tượng Bụt còn gắn liền với các nghi thức cúng bái vào các ngày lễ lớn của đạo Phật. Dân gian vẫn thường xuyên nhắc nhở nhau đừng quên cúng Bụt vào những ngày rằm tháng tư, tháng bảy:

Bé ơi, mẹ bảo bé nghe Tháng tư giỗ Bụt cúng chè đậu xanh. hay

Con ơi, con hãy nhớ ghi Tháng tư giỗ Bụt thì đi lễ chùa và

Con ơi ráng học kẻo thua Vu lan lên chùa lạy Bụt, Bụt thương. Có thể nói Bụt vừa trở thành hình ảnh quen thuộc trong tiềm thức của người dân và được nhắc nhiều trong ca dao. Từ biểu trưng đến tín ngưỡng tôn giáo và tín ngưỡng dân gian, hình tượng Bụt đi vào lối sống hằng ngày của nhân dân lao động, rồi được dân gian hóa theo những ý nghĩa khác nhau. Bụt trong dân gian hiền lành, thật thà, chất phác, có sao nói vậy, không biết quanh co, dối trá vì thế để chứng minh cho tấm lòng chân thật của mình, một chàng trai vừa ví lòng mình với Bụt:

Lòng anh như Bụt đứng trong chùa Sao em cứ nói chuyện hơn thua rứa hè? Ông Bụt trong dân gian không những là một con người thân thương, gần gũi mà còn là hiện thân của sự mầu nhiệm của cuộc sống tối tăm, gian khổ. Bụt giúp người cùng kiệt khổ, hiền lành, trừng trị kẻ giàu có mà độc ác gian tham. Với ông Bụt này, nhân dân lao động xin gì ông cũng cho, thậm chí coi Bụt như cha mẹ mình, làm gì cũng hỏi xin ý kiến và hoàn toàn tin tưởng Bụt, kể cả chuyện dựng vợ gả chồng:

Còn trời, còn nước, còn non Còn sư gõ mõ anh còn thắp nhan Chùa thiêng anh khấn Bụt vàng Trai không đi cưới cô nàng được không? Trong ca dao hình tượng Bụt vừa quá thân thuộc, từ người già, trẻ nhỏ, phụ nữ, đàn ông ai cũng yêu quý Bụt, Bụt được gọi bằng “anh”, phụ nữ bình dân so sánh Bụt với chồng mình, họ coi Bụt như người nhà. Rồi ngay cả chuyện trai gái tương tư cũng đem chuyện sư nhớ Bụt ra mà ví von:

Nhớ chàng ra ngẩn vào ngây Sư ông nhớ Bụt, mõ ràng nhớ chung. Bụt trong Phật giáo còn được dân gian dùng làm hình tượng phê phán, chỉ trích những kẻ xấu xa trong giới tu hành, những kẻ giả danh tu hành để làm bậy.

Của Bụt mất một đền mười Bụt hãy còn cười, Bụt hãy lấy cho. Hình tượng ông Bụt trong ca dao tay không còn nghiêm trang như hình tượng Phật trong nhà chùa. Nhưng có lẽ đấy là thành công của nét dân gian hóa hình tượng Bụt trong ca dao. Hình tượng Bụt tự nhiên và gần gũi bao nhiêu thì tiếng lòng của quần chúng chân thật bấy nhiêu.

Một biểu tượng quen thuộc khác của Phật giáo là “Chùa”, chùa chiền là một hình ảnh rất dễ nhận biết trong các làng quê Việt Nam. Chùa là nơi ngự trị của linh thiêng Phật tổ, nhân dân xem Chùa như một niềm tôn kính thờ phụng trang nghiêm. Ngoài ra chùa làng còn là nơi mà toàn thể dân làng gặp gỡ nhau trong các ngày lễ lớn hàng năm:

Chùa làng một điện, một gian Hàng năm giỗ Bụt cả làng dâng quy Chùa làng có tự cổ sơ Lớn lên vừa thấy Bụt thờ ba ông. Ngôi Chùa là nơi gửi gắm bao kỷ niêm vui buồn với tất cả tâm tình. Rằm mồng một dâng hương hoa quả, phẩm vật cúng Phật:

Tay hương quả nếp vào chùa Thắp nhan lạy Phật xin bùa em đeo hay

Lên chùa lễ Phật quy y Cầu cho tuổi nọ tuổi ni kết nguyền. Chùa là cái gì gần nhất với tâm thức người dân cho nên biểu tượng đó sẽ khiến người ta tin vào đó để nói những cái gì người ta muốn nói:

Ba phen tàu hổi cả ba Phen này hỗi nữa lên Chùa đi tu hay

Biển đông sóng dợn cát đùa Sánh đôi không đặng lên Chùa đi tu. Chùa, Bụt gần gũi, bình dị với người dân. Nếu chùa, Bụt nơi bày tỏ tấm lòng, nguồn bày tỏ tâm tình. Còn một biểu tượng khác của Phật giáo là mong ước và bài học luân lí Phật giáo để con người vươn lên, đó là biểu tượng hoa sen. Hoa sen là một loài hoa bình dị, tượng trưng cho đạo Phật và thực tế hoa sen lại phát ở giữa ao hồ, bùn rồi vươn lên tỏa hương sắc, làm đẹp thơm cho tất cả môi trường sinh thái. Cũng vậy, đạo Phật là trung đạo, vừa xuất thế, vừa nhập thế, vừa vượt khỏi bùn, vừa sinh ra từ bùn, xuất thế cho tăng ni, nhập thế cho Phật tử, là một cuộc sống hài hòa, cân đối. Nếu như đạo Phật có bài hát:

Hoa sen xinh đẹp biết bao!

Hoa ơi, hoa có tự thuở nào?

Mà người hằng nói hoa quân tử

Gần bùn vẫn giữ vẻ thanh cao…

Thì ca dao có câu:

Trong đầm gì đẹp bằng sen Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng Nhị vàng bông trắng lá xanh Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Bài ca dao là một triết lí của đạo Phật, hoa sen có mùi hương đặc biệt, nó luôn giữ lấy được tâm hồn đẹp nhất. Nó biểu hiện cho sự thanh cao, tinh khiết như người vừa đạt đến chân tu.

Hoa sen thường được trồng nhiều ở các đền chùa, nó cũng biểu trưng cho sự thiêng liêng, cao cả. Hoa sen thường được đi vào để thờ cúng trong các ngày lễ ở đền, chùa linh thiêng:

Hoa sen lai láng giữa hồ Giơ tay muốn bẻ sợ chùa có sư. Không những thế, hoa sen có sức sống thật vĩnh cửu, dầm mưa, dãi nắng vẫn không phai nhạt, vững chắc như tòa sen Phật tổ ngồi thiền:

Hoa sen hoa khéo giữ màu Nắng hồng không nhạt mưa dầm không phai. Xuất hiện nhiều câu ca dao có biểu tượng liên quan đến Phật giáo vừa chứng tỏ niềm tin của nhân dân vào đạo Phật vừa hình thành từ rất sớm. Những biểu tượng gửi gắm ước mơ, niềm tin của nhân dân vào sự công bằng Phật giáo khi có Bụt phân xử, khi có chùa là nơi gửi gắm tâm tình. Đặc biệt hoa sen là mục đích cho người người hướng tới. Sống tu tâm, đẹp đạo giữa đời. Ông cha ta tiếp thu tư tưởng Phật giáo làm kim chỉ nam vừa tạo nền luân lí nhân bản. Từ sự dân gian hóa hình tượng Phật, chùa, hoa sen và rất nhiều biểu tượng khác nữa vừa chứng tỏ sức ảnh hưởng rộng lớn rãi của đạo Phật từ bi. Những biểu tượng của đạo Phật gần với đời thường, không xa vời, không lí tưởng, ở gần bên cuộc sống, sát cuộc sống nên được quần chúng đón nhận. Phật giáo trong dân gian gần gũi với tất cả người, tất cả nhà trong không gian làng quê rộng lớn lớn.

2.2.2. Tiếng hát ca dao và những con đường đến với chân lí Phật giáo.

Đạo Phật quan niệm vạn vật không do một thế lực bên ngoài nào làm ra mà do vận động của bản thân nó. Quy luật vận động là quy luật nhân quả. Mỗi vật có thủy chung, sinh rồi diệt, sắc bất vị không nên gọi là “vô thường”. Đạo Phật nhằm giải thoát con người khỏi vòng vô thường mà trở về với thường trụ bất – sinh – bất diệt. Đạo Phật cũng quan niệm cuộc đời là bể khổ, con người trầm luân trong bể khổ. Dứt được cái khổ tức là giải thoát, nhưng đạo Phật lại đi tìm nguyên nhân cái khổ ở bản thân con người, do nhân duyên luân hồi. Ai cũng khổ, nhưng ai cũng có thể giải thoát thành Phật bằng cách tu tâm. Phật chủ trương bình đẳng và tự giác, đồng thời (gian) chủ trương cứu khổ cứu nạn. Chân lí vĩnh cửu đó của đạo Phật được ca dao phản ánh một cách sâu sắc và rõ nét, con đường tìm Phật của quần chúng nhân dân cũng muôn màu,muôn vẻ.

Cái biển khổ mà Phật giáo nói trong chân lí thứ nhất, ca dao phác ra một hình ảnh cực kỳ sống động, linh hoạt:

Gánh cực mà đổ lên non Còng lưng mà chạy cực còn chạy theo. Đó mới chỉ là một nỗi khổ ải mà nhân dân phải chịu, có cả trăm nỗi khổ mà ca dao kể ra khá đủ: khổ vì thân xác, khổ vì nghèo, khổ vì đói, khổ vì vất vả, khổ vì già, khổ vì chết, khổ vì biệt li, khổ vì lo lắng.

Ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống nhân dân rất sâu đậm, nhất là đức tin về nghề báo, luân hồi, nhân quả. Triết lí về nghề vẫn được diễn tả:

Lênh đênh qua cửa thần phù Khéo tu thì nổi vụng tu thì chìm. hay

Ai ơi! Hãy nhớ cho lành Kiếp này chẳng gặp để dành kiếp sau. Qua ca dao, giáo lí vô thường được dân gian tiếp nhận lấy đó làm quan điểm sống của mình:

Đời người như bóng phù du Sớm còn tối mất, công phu lỡ làng Sinh không, tử lại hoàn không Khó ta ta chịu đừng mong giàu người. Người bình dân tin hiện kiếp là sự nối tiếp của tiền kiếp và là điều kiện tạo quả quả ở hậu kiếp. Thế nên họ xem xét trao dồi thiện tâm là để tạo phúc ở kiếp sau:

Người trồng cây hạnh, người chơi Ta trồng cây đức để đời về sau. Bên cạnh đó, người bình dân còn nặng lòng hiếu kính mà “kinh báo phụ mẫu ân” của đạo Phật vừa đề cập “ân đức cha mẹ vô lượng vô biên, kể không bao giờ cùng”, khởi nguồn từ lòng hiếu thảo trong sáng đạo Phật, nhân dân lao động hình dung công ơn sinh thành dưỡng dục như sự vĩ đại, vĩnh hằng của trời cao bể rộng.

Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra Một lòng thờ mẹ kính cha Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con. Hiếu hạnh xuất phát từ lòng từ bi, là Bồ tát. Trên cơ sở đó, lòng hiếu thảo trở thành một nền luân lí đạo đức thiết yếu mà bổn phận làm trai phải chu toàn:

Làm trai hết đủ trăm đường Trước tiên đền miếu, đạo thường ngày xưa. Phật giáo thấm sâu tư tưởng toàn thiện, toàn mĩ vào đời sống dân gian rất sâu đậm. Người lao động vừa tìm về với Phật như đó là nơi nương tựa, an ủi, nơi để bày tỏ niềm tin và thể hiện khát vọng thanh bình giải thoát của mình trước tục lụy phù du của cuộc đời ô trọc:

Mười năm lưu lạc giang hồ Một ngày tu đạo cơ đồ lại nên. Trong tâm thức nhân dân, đạo Phật là đạo của thực hành hơn là lí thuyết suông:

Dẫu xây chín đợt phù đồ Không bằng làm phúc cứu cho một người. Qua tất cả những câu ca dao trên, chúng ta ngẫm ra điều là Phật giáo vừa thấm nhuần vô cùng sâu sắc trong nhân dân. Mọi mơ ước, lẽ sống được người bình dân đưa vào tiếng hát ca dao. Lẽ sống của đạo Phật trở thành tâm linh, là ước mơ để con người vươn tới. Có lẽ khi tâm bình yên thì con người mới có thể suy nghĩ. Con người trong ca dao tin vào đạo Phật và họ cảm giác an lòng trên con đường theo đuổi chân lí cao cả của đạo. Đạo Phật vừa chứng tỏ được sức mạnh bay thường của mình trên con đường gieo thiện diệt tà.

2.3. Ảnh hưởng của yếu tố Phật giáo trong ca dao người Việt

Đọc ca dao Phật giáo, chúng ta thấy tư tưởng nhân bản của đạo Phật thấm nhuần tình cảm, đạo đức của người Việt. Đạo Phật vừa làm cho nội dung của ca dao thêm phong phú và đa dạng. Ca dao Phật giáo là ca dao giáo dục lòng tin, phẩm chất của con người, tiếng nói của khát vọng, của ước mơ để từ đó con người cố gắng tu dưỡng để vươn lên sống đẹp giữa đời. Bởi đạo Phật trong ca dao là đạo Phật của đạo đức, là đạo đức Phật giáo – đạo đức chứ không phải luân lí, bởi vì nó là nếp sống, là phong cách, không phải là những điều răn khô khan, cứng nhắc. Và chính bởi vì nó là đạo đức, bởi vì Phật giáo đi quá sâu vào đời sống dân gian, nên nó hòa lẫn vào luân lí bình dân, quyện nhau là một, khó phân biệt đâu là luân lí, đâu là Phật giáo.

Những câu ca dao về lòng từ bi, nhân quả, nghề báo vừa chứng minh cho ảnh hưởng của Phật giáo khi vừa dân gian hóa. Đặc biệt là hình ảnh “Bụt hiền” trong ca dao Phật giáo, bởi vì đạo đức của Phật không dữ, đó là đạo đức của người, đạo đức của hành vi, đạo đức nhân quả. Bụt không trừng phạt, nhân quả hiền lành, nhân dữ thì quả xấu, ai cũng hiểu, cũng nhận. Đạo đức của Bụt, của Phật vừa trở thành luân lí phổ thông, là đạo đức của dân tộc từ thuở dân tộc là dân tộc.

Đạo đức của Phật giáo trong ca dao còn là câu chuyện trào phúng. Trào phúng trong ca dao là trào phúng có đạo đức. Trào phúng là chuyện của muôn đời, muôn nơi chẳng phải là đặc sản của thời (gian) đại nào, văn hóa nào. Nhưng trào phúng dở thì rơi vào thô bỉ. Đối với tiếu lâm thô bỉ, quá đà, phong dao vừa có câu trả lời sẵn:

Đất Bụt lại ném chim trời Chim trời bay mất đất rơi xuống đầu. Đối với thứ trào phúng có đạo đức, chúng ta nghe mà thầm Thank người đi trước. Đạo Phật mà dân gian ấp ủ trong ca dao là đạo Phật giới, ta là giới, có giới thì có sự kính trọng, không có thì ca dao nói thẳng “ăn mặn nói ngay hơn ăn chay nói dối”.

Đạo Phật đi vào ca dao trở thành đạo đức bình dị, hiền hòa nhưng chắc nịt không lay chuyển. Đó là đạo đức dịu dàng của chị nhắn với em trong chiều thanh tịnh:

Mõ chiều em gióng chị nghe Chuông chiều chị gióng có về bên em. Từ lâu, ca dao là tiếng lòng của quần chúng, mà tiếng nói của nhân dân là tiếng lòng bình dị, tự nhiên, hồn nhiên và vui tươi. Khi buồn, khi vui con người đều cất tiếng vào ca dao, khác với yếu tố Phật giáo mang tính chất tôn thờ, với vẻ trang nghiêm, đạo Phật trong ca dao rất vui vẻ, rất trẻ, bởi vì chùa là miếng đất hoa màu của văn hóa lễ hội. Lễ hội tưng bừng trong ca dao, nổi tiếng nhất là lễ hội chùa Thầy:

Nhớ ngày mồng bảy tháng ba Trở vào hội làng trở ra hội Thầy. Hội lớn, hội nhỏ, chùa làm vui hàng xóm, gánh vác chức năng giải trí trong một xã hội nông thôn quanh năm quần quật:

Làng ta mở hội vui mừng Chuông kêu trống đánh vang lừng đôi bên. Chuông mõ là thoát tục, chuông trống là vui chơi là tín ngưỡng lồng vào vui sống. Và vui chơi trong một xã hội không gò bó, lễ nghĩa là một nhu cầu, một đòi hỏi hồn nhiên trước câu thức đè nén. Do đó, lễ hội là những dịp vui để trai gái gặp nhau, trai tìm vợ gái tìm chồng, những chuyện rất bình thường mà cửa chùa trang nghiêm tạo thời cơ bên cạnh cửa Khổng sân Trình khắc nghiệt như cây roi:

Hội chùa Thầy có hang Cắc Cớ Trai chưa vợ nhớ hội chùa Thầy. Giáo lí về nỗi khổ và giải thoát qua những câu ca dao vừa trở nên gần gũi và dễ hiểu. Đọc câu ca dao Phật giáo chúng ta thấy ảnh hưởng sâu sắc của Phật đến ca dao. Quá thân mật, quá gần gũi, quá hòa đồng với dân gian, ngôn ngữ Phật giáo nằm trên đầu lưỡi của ca dao để nói chuyện hằng ngày. Đạo Phật trong ca dao vừa hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đạo hòa nhập với đời. Câu chuyện đạo đi vào cuộc sống vui tươi qua những câu hát như vậy thì đó mới là đạo của đời. Hơn nữa ca dao là những câu thơ mộc mạc, hồn nhiên. Trong đạo Phật, bản tính của con người cũng hồn nhiên, mộc mạc như thế, càng hồn nhiên ca dao càng gần với đạo, từ ca dao đạo tự đến với đời một cách tự nhiên.



KẾT LUẬN Có thể nói yếu tố Phật giáo từ Ấn Độ khi du nhập vào Việt Nam vừa có những ảnh hướng lớn và sâu sắc trong quần chúng nhân dân. Từ lâu trong nền văn học truyền miệng của người Việt, yếu tố Phật giáo vừa ăn sâu trong suy nghĩ, trong cảm xúc của người bình dân. Quần chúng tin và yêu Phật bằng cái tên giản dị là Bụt, hình ảnh chùa chiền và bóng dáng triết lí. Đạo Phật trong ca dao mang những nét riêng không thể nhầm lẫn với bất kì một mảng văn học Phật giáo nào khác. Ca từ của ca dao giản dị, dễ hiểu, vui tươi nên hình ảnh Phật trong ca dao cũng mang những nét chung đó. Người Việt vừa biết tiếp thu tinh hoa của Phật giáo làm đẹp hơn tinh hoa của dân tộc mình. Tư tưởng nhân bản của đạo Phật thấm nhuần tình cảm đạo đức người Việt. Chưa bao giờ tiếng nói của đạo Phật gần với quần chúng như trong ca dao. Ca dao chúng ta có câu:

Tu cho trọn kiếp bụi hồng Kẻo già lại tiếc rằng lòng từ bi. Mở lòng để nghe cac dao chúng ta sẽ đến được với tiếng nói của Phật, tìm thấy ở Phật giáo những những con đường chân lí để cố gắng tu tâm, vươn lên sống đẹp và sống có ích giữa đời.



TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê Bá Hán – Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (2006), Từ điển thuật ngữ văn học ,NXB Giáo dục.

2. Lệ Như Thích Trung Hậu (2005), Ca dao tục ngữ Phật giáo Việt Nam, NXB TP. Hồ Chí Minh

3. Đinh Gia Khánh(2006), Văn học dân gian Việt Nam, NXB Giáo dục.

4. Lê Đức Luận (2005), Giáo trình văn học so sánh, Đại học Đà nẵng-Đại họa Sư phạm.

4. Marguerite- Marethiollies(2000), Từ điển tôn giáo, NXB Khoa học xã hội.

5. Xuân Thành- Nguyễn Văn Tài – Nguyễn Hữu Quế (2004), Hỏi đáp văn chương, NXB Thanh niên.

6. Nguyễn Tài Thi(1991), Lịch sử Phật giáo Việt Nam,NXB Khoa học xã hội.

7.
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
B Những yếu tố văn học dân gian trong Truyện cổ Phật giáo của Thích Minh Chiếu Văn học dân gian 0
D Yếu tố bi kịch trong tiểu thuyết đất lửa của nguyễn quang sáng Văn học 0
D PHÂN TÍCH một số yếu tố ẢNH HƯỞNG đến LƯỢNG KHÍ THẢI CO2 của một số QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI năm 2014 Khoa học Tự nhiên 0
D Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất làm việc từ xa của nhân viên văn phòng tại Tp. HCM Văn hóa, Xã hội 0
D Thực trạng và một số yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ tiêm chủng mở rộng tại huyện Tu mơ rông năm 2016 Y dược 0
D Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng nhận biết thương hiệu của khách hàng đối với Công ty TNHH On Home Asia Luận văn Kinh tế 0
D Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua smart-phone của khách hàng tại Bình Dương Luận văn Kinh tế 0
D Ảnh hưởng của các yếu tố chất lượng dịch vụ đến sự hài lòng của khách hàng tại trung tâm mua sắm Aeon Mall Bình Dương Quản trị Chiến Lược 0
D Kiến thức, thái độ, thực hành về sức khỏe sinh sản vị thành niên và một số yếu tố liên quan của học sinh trường trung học phổ thông Y dược 0
N Nhờ tải giúp em Thực trạng và các yếu tố tác động đến việc làm thêm của sinh viên Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay (Luận văn thạc sĩ) - Phan Thị ThuThảo Khởi đầu 3

Các chủ đề có liên quan khác

Top