mấy câu dưới đây liên quan đến"vương triều tây sơn và nhân vật quang trung":

1.khái quát,sự ra đời,các đời vua

2.chính sách cai trị kinh tế,chính trị,xã hội

3.kháng chiến chống giặc ngoại xâm

Thank rất nhiều!








 

hoangluan1966

New Member
TRIỀU TÂY SƠN (1778-1802)
Thái Đức Hoàng đế Nguyễn Nhạc (1778-1793)
Quang Trung Hoàng đế Nguyễn Huệ (1789-1792)
Cảnh Thịnh Hoàng đế (Quang Toản) (1793-1802)
Thái Đức Hoàng Đế (1778-1793)

Niên hiệu: Thái Đức

Tổ tiên anh em Tây Sơn vốn người họ Hồ ở huyện Hưng Nguyên, Nghệ An. Khoảng những nǎm 1653- 1657 quân Nguyễn đásnh ra Đàng ngoài, chiếm được 7 huyện của trấn Nghệ An, khi rút về Nam họ đem theo rất nhiều dân ở các huyện trên vào sinh sống ở các vùng đất mới phía Nam để khẩn hoang. Ông tổ của Tây Sơn cũng bị quân Nguyễn bắt và an sáp ở ấp Tây Sơn Nhất (nay là thôn An Khê, phủ Hoài Nhân, Bình Định). Từ đó họ đổi sang họ Nguyễn.

Đến đời Nguyễn Phi Phúc lại dời sang ấp Kiên Thành, huyện Tuy Viễn (Tuy Phước, Bình Định). Ông Nguyễn Phi Phúc lấy bà Nguyễn Thị Đồng sinh được ba người con trai: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ. Gia đình ông làm nghề buôn trầu, cuộc sống cũng khá giả.

Anh em Nguyễn Nhạc cũng có được đi học và có thời (gian) gian vừa theo học thầy giáo Hiến. Giáo Hiến nguyên là môn khách của Trương Vǎn Hạnh, ngoại hữu dưới thời (gian) Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777). Sau vì Hạnh bị Trương Phúc Loan giết, Giáo Hiến sợ bị liên lụy phải

chạy vào Qui Nhơn, mở trường dạy học ở ấp Yên Thái. Lúc đó quyền thần Trương Phúc Loan tác oai tác phúc, lòng người ai cũng cǎm ghét. Hàng ngày được học với Giáo Hiến, anh em Tây Sơn lại được thúc giục bởi những câu sấm đầy khích lệ: "Tây khởi nghĩa, Bắc thụ công". Giáo Hiến còn nói cụ thể hơn:

- Anh là người Tây Sơn, hãy cố đi!

Nguyễn Nhạc xuất thân làm biện lại (thu thuế ở một trạm thuế trong vùng) nhưng vụ thuế nǎm Tân Mão (1771), thu được bao nhiêu Nguyễn Nhạc đánh bạc hết sạch. Để tránh sự truy tố của nhà cầm quyền, Nhạc bỏ trốn cùng hai em vào ở núi Thượng Đạo, ấp Tây Sơn, dựng trại, lập đồn, xưng hùng khởi nghĩa. Cơ nghề triều Tây Sơn bắt đầu từ đây.

Theo anh em Tây Sơn là những người can đảm vừa từng bôn ba, bị cuộc sống dồn nén, xô đẩy đến bước đường cùng phải cầm vũ khí, Lại có cả những người thuộc các dân tộc miền thượng du vùng nam Trường Sơn... Bước đầu nghĩa quân vừa có vài nghìn người. Anh em Tây Sơn thường sai quân đi cướp của những nhà giàu trong vùng rồi phân phát cho dân nghèo. Lúc bấy giờ trong vùng Quy Nhơn có Huyền Khê là một tay giàu có, ngầm giúp họ về tài chính. Nhờ đó Tây Sơn mộ lính sắm khí giới và theo đuổi mục tiêu cao hơn: lật đổ quyền thần Trương Phúc Loan, ủng hộ Hoàng tôn Dương. Mùa thu nǎm Quý Tỵ (1773), Tây Sơn đem quân ra đánh ấp Kiên Thành, chia đặt cơ quan cai quản trong vùng họ kiểm soát: Chúa trại nhất Nguyễn Nhạc kiểm soát hai huyện Phù Ly và Bồng Sơn Chúa trại nhì Nguyễn Thung phụ trách huyện Tuy Viền; còn chúa trại ba Huyền Khê cung cấp lương thực quân nhu... Họ không chỉ mở rộng lớn vây cánh ở trong vùng như chiêu dụ những tay lục lâm Nhưng Huy và Tứ Linh mà còn liên lạc với nước ngoài, mật (an ninh) ước với nữ chúa Chiêm Thành đem quân sang đóng ở trại Thạch Thành làm thế ỷ giốc. Công chuyện sắp đặt và mưu mô ban đầu đều do Nguyễn Nhạc, một con người cơ trí và đóng vai trò chủ động. Bằng mưu kế trá hàng của Nguyễn Nhạc, quân Tây Sơn chỉ trong một đêm vừa lấy được thành Quy Nhơn, sau đó tiến đánh Quảng Ngãi. Dưới chiêu bài tôn phò Đông Cung Dương họ đánh chiếm được Phú Yên.

Nǎm Bính Thân (1776), Nguyễn Nhạc xưng là Tây Sơn vương, đúc ấn vàng, phong cho hai em: Nguyễn Huệ làm phụ chính, Nguyễn Lữ làm Thiếu phó. Những người có công theo giúp cũng theo thứ bực ban thưởng. Tây Sơn vương đóng đô tại thành Đồ Bàn, trữ lương thực, luyện binh lính, điểm duyệt tướng sĩ, thu dùng những tay hào kiệt, lực lượng phát triển nhanh chóng. Giảng hòa với quân Trịnh, nǎm Đinh Dậu (1777) Nguyễn Nhạc được phong làm Quảng Nam trấn thủ tuyên úy Đại sứ Cung Quốc công. Từ đó quân Tây Sơn dốc toàn lực tấn công quân Nguyễn ở phía Nam. Hai đạo quân thủy bộ do Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ cầm đầu rầm rộ tiến vào Gia Định: Nguyễn Phúc Thuần và Đông Cung Dương đều bị chết trong trận đánh ở Long Xuyên, chỉ còn Nguyễn A'nh chạy thoát.

Nǎm Mậu Tuất (1778) sau khi vừa giết được chúa Nguyễn, đánh tan lực lượng của chúa Nguyễn ra khỏi cõi, Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng đế, thành lập một vương triều mới, đặt niên hiệu là Thái Đức, phong Nguyễn Huệ làm Long Nhương tướng quân. Lúc bấy giờ thấy vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc lấy hiệu bằng hai chữ "Thái Đức", có người hiếu sự, đoán chiết tự hai chữ "Thái" và chữ "Đức" mà phán rằng: "Ba người tranh một nước", "mười bốn nǎm nữa sẽ mất". Có người còn đoán định mệnh nhà Tây Sơn bằng câu: "Thập nhị niên cường, kỳ cường mạc ngư" (Mạnh mười hai nǎm, cái mạnh ấy không ai chống nổi).

Thế là từ lúc khởi binh nǎm Tân Mão (1771) đến nǎm Nguyễn Nhạc lên ngôi nǎm Mậu Tuất (1778) anh em nhà Tây Sơn vừa phải chiến đấu trong 8 nǎm trường. Nǎm Giáp Thìn (1784) quân đội Tây Sơn vừa đánh tan hai vạn thủy binh với 300 chiến thuyền giặc Xiêm ở Định Tường. Nǎm Bính Ngọ (1786), theo lệnh của Hoàng đế Nguyễn Nhạc, Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ đem đại quân ra hạ thành Thuận Hóa của quân Trịnh tháng 5 nǎm Bính Ngọ (1786) và một tháng sau - ngày 25/6 quân đội Tây Sơn vừa tiến vào cố đô Thǎng Long, thực hiện khẩu hiệu "phù Lê diệt Trịnh".

Sau nhiều chiến thắng lẫy lừng, uy danh của Nguyễn Huệ ngày càng vang dội. Nghe tin Nguyễn Huệ vừa lấy được thành Thǎng Long, Nguyễn Nhạc cả sợ, cho rằng Nguyễn Huệ giữ quân ở ngoài, khó bề kiềm chế nổi, liền lấy 500 thân binh ra Phú Xuân chọn thêm quân tinh nhuệ đi gấp ra Bắc. Vua Lê biết tin vua Tây Sơn thân hành ra Thǎng Long, đem trǎm quan ra ngoài cõi để đón. Nguyễn Nhạc thúc quân đi mau, sai người đến hẹn với vua Lê hôm khác sẽ đến ra mắt. Còn Nguyễn Huệ ra tận ngoại ô đón tiếp và tạ tội tự chuyện của mình. Vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc nói: Tướng ở bên ngoài, nếu gặp chuyện biến thì cứ tự ý mà làm cũng được. Bắc Hà có thể lấy được, mà ông lấy ngay được, đó là nhờ thần diệu trong phép dùng binh... Nhưng mà mình đi đánh nước khác, kéo quân vào sâu trong xứ sở của người ta, một chốc làm thay đổi hết nền nếp cũ của họ như thế; tránh sao khỏi sự thù oán của muôn họ. Anh luôn luôn lo ngại đến những chuyện bất ngờ có thề xảy ra, vì vậy phải lật đật ra ngay đây để nghĩ kế đỡ ông.

Tới phủ, Nguyễn Huệ dắt công chúa Ngọc Hân ra chào và nói hết cả sự thật với anh. Vua Tây Sơn khen:

- Chà, em vua Tây Sơn làm rể vua nước Nam, "môn đương hộ đối" mối nhân duyên thật đẹp! - Rồi lại bảo công chúa rằng:

- Người quí giá như thế này, thực không hổ là cô em dâu của nhà ta.

Hai anh em ôn tồn trò chuyện thân mật (an ninh) như anh em nhà thường dân vậy. Hồi lâu, công chúa cáo từ lui ra, Nguyễn Huệ sai quây màn ở cung chính tẩm, mời anh vào nghỉ, còn tự mình thì chuyển ra ngủ ở Gác Kỳ Lân.

Quân lính của Nguyễn Huệ đem đi trước đây, các đội ngũ đều vừa thay đổi. Nay Nguyễn Huệ đem binh phù nộp cả lại cho anh. Vua Tây Sơn nắm được binh quyền trong tay rồi, bèn bố trí lại đội ngũ y như cũ. Từ đó tướng sĩ chl tuân theo mệnh lệnh của nhà vua.



Buổi lễ gặp mặt hai vua diễn ra ngay sau đó tại bản doanh của vua Tây Sơn: Nguyễn Nhạc đứng chắp tay trên thềm, sai Nguyễn Huệ ra đón rước vua Lê. Vì là nghi lễ "hai vua gặp nhau" cho nên không ai phải lạy ai. Khi tất cả người vừa an tọa, vua Tây Sơn liền hỏi: Hoàng thượng nǎm nay xuân thu độ bao nhiêu? Viên quan đi theo đáp thay vua Lê, rồi nhân đó tiếp rằng:

- Quốc quân họ Lê chúng tui gặp phải họ Trịnh lấn quyền lộng thổ, mũ dép đảo lộn vừa lâu. May nhò thánh thượng là bậc chí nhân đại nghĩa, sai tướng ra quân, vì quốc quân chúng tui mà chỉnh đốn lại cơ đồ... rồi xin cắt mấy quận ấp khao thưởng quân sĩ. Vua Tây Sơn đáp rằng:

- Vốn vì họ Trịnh chuyên chế, cho nên mới làm chuyện tôn phò nhà Lê; nếu là đất của họ Trịnh thì một tấc tui cũng không để; còn như đất của nhà Lê thì một tấc tui cũng không dám lấy, chỉ mong tự hoàng phân phát rường mối nhà vua, giữ yên trong cõi, đời hòa mục giao hảo với nước láng giềng, như thế là phúc đức cho cả hai nước vậy.

Từ sau cuộc tiếp kiến đó, lòng người Bắc hà mới yên, hết ngờ sợ quân Nguyễn Nhạc. Sau khi từ Bắc Hà trở về, tháng 4 nǎm Đinh Mùi (1787) Nguyễn Nhạc chia vùng đất phía Nam ra làm ba: từ núi Hải Vân trở ra Bắc thuộc về Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ; đất Gia Định thuộc về Đông Định Vương Nguyễn Lữ; Nguyễn Nhạc đóng ở Quy Nhơn tự xưng là Trung ương hoàng đế.



Từ đó Nguyễn Nhạc tự mãn với sự giàu sang phú quý vừa đạt được, không lo gì đến thời (gian) cuộc, chỉ lao vào con đường hưởng lạc, anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ mâu thuẫn trong chuyện chia của, chia đất, đem binh đánh lẫn nhau. Nguyễn Huệ cho quân bao vây thành Quy Nhơn trong vài tháng, Nguyễn Nhạc đóng chặt thành cố giữ và cầu viện Đặng Vǎn Trấn từ Gia Định về giải vây. Nhưng mới đi đến Phú Yên, Đặng Vǎn Trấn bị quân Nguyễn Huệ bắt được. Nguyễn Nhạc bèn ở trên thành gọi Huệ mà bảo rằng:

- Nồi da nấu thịt, lòng em sao nỡ làm thế?

Rồi hai anh em cùng hướng vào nhau mà khóc, giảng hòa, lấy Bản Tân làm giới hạn: từ Quảng Ngãi trở vào Nam Nguyễn Nhạc làm chủ, từ phủ Thǎng, phủ Điện trở ra Bắc do Nguyễn Huệ làm chủ. Từ đấy anh em phòng bị lẫn nhau, không còn đề ý đến miền Nam nữa. Nguyễn Lữ tài hèn sức yếu bỏ thành Gia Định chạy về Quy Nhơn rồi mất. Trong khi Nguyễn Huệ phải đem quân ra đánh quân xâm lược Thanh, Nguyễn Nhạc ở phía Nam không lo phòng bị, để quân Nguyễn A'nh lấy Bình Thuận, Bình Khang, Diên Khánh... Thế của Nguyễn Nhạc ngày càng yếu, chỉ bo bo giữ được các thành Qui Nhơn, Quảng Ngãi, Phú Yên mà thôi.

Khi vua Quang Trung mất nǎm Nhâm Tý (1792), Nguyễn Nhạc cũng không thể ra viếng em trai được vì quân đội của Nguyễn Quang Toản ngǎn cản và lo phòng bị tấn công.

Một nǎm sau khi Nguyễn Huệ Quang Trung từ trần, nǎm Quí Sửu (1793) quân Nguyễn A'nh vây thành Quy Nhơn, Nguyễn Nhạc đang ốm, sai con là Bảo đem quân chống giữ, tình hình rất nguy ngập, Nguyễn Nhạc viết thư cầu cứu Quang Toản. Quang Toản sai các tướng Phạm Công Hưng, Nguyễn Vǎn Huấn, Ngô Vǎn Sở đem 17.000 bộ binh, 80 thớt voi và 30 chiếc thuyền chiến chia đường tiến vào cứu viện. Quân Nguyễn A'nh phải rút lui. Các tướng của Quang Toản vào thành Qui Nhơn, Nguyễn Nhạc sai đem vàng bạc mỗi thứ một mâm khao quân. Thái úy của Quang Toản là Phạm Công Hưng bèn biên kê kho tàng, thu lấy giáp đinh và giữ thành. Trước chuyện làm đó, Nguyễn Nhạc uất quá thổ ra máu mà chết, Quang Toản phong cho con Nguyễn Nhạc là Bảo làm Hiếu công, cắt cho huyện Phù Ly để làm ấp ǎn lộc, gọi là Tiểu Triều: Mẹ Bảo nói với con rằng: "Khai thác cõi đất đều là công của cha mày, nay chỉ ǎn lộc có một huyện, nếu sống mà chịu nhục chẳng thà chết còn hơn".

Từ đó Bảo có chí muốn hàng quân Nguyễn A'nh, bị quân của Quang Toản bắt được, cho uống thuốc độc chết. Như vậy Nguyễn Nhạc làm vua được 16 nǎm.



Quang Trung Hoàng đế - Nguyễn Huệ (1789-1792)

Niên hiệu: Quang Trung

Nguyễn Huệ sinh nǎm Quí Dậu (1752), là em của Thái Đức Hoàng đế Nguyễn Nhạc. Khi còn nhỏ, Nguyễn Huệ thường được gọi là chú Thơm, là em thứ hai trong nhà. Trong ba anh em, Nguyễn Huệ có nhiều dặc điểm nổi trội nhất: tóc quǎn, da sần, tiếng nói sang sảng như chuông, cặp mắt sáng như chớp, có thể nhìn rõ tất cả vật trong đêm tối.

Dưới quyền của Tây Sơn vương Nguyễn Nhạc, ông được phong làm Long Nhương tướng quân khi mới 26 tuổi. Là một tay thiện chiến, hành quân chớp nhoáng, đánh đâu được đấy, Nguyễn Huệ nhanh chóng trở thành vị tướng trụ cột của vương triều Tây Sơn. Khi mà vua Thái Đức đang phải lo củng cố xây dựng triều đình, thì Nguyễn Huệ là người được trao cầm quân đánh Đông dẹp Bắc. Tất cả những chiến thắng lớn vang dội của quân Tây Sơn đều gắn liền với tên tuổi của vị tướng trẻ tài ba này.

Đem quân ra Thǎng Long lật nhào họ Trịnh chuyên quyền, Nguyễn Huệ tỏ ý tôn phò nhà Lê. Cùng với thuộc tướng là Nguyễn Hữu Chinh, Nguyễn Huệ vào điện Vạn Thọ tiếp kiến vua Lê. Lê Hiển Tông trân trọng mời Nguyễn Huệ ngồi ở sập bên giường ngự mà hỏi thǎm yên ủi. Nguyễn Huệ thưa:

- tui vốn là kẻ áo vải ở Tây Sơn, nhân thời (gian) thế mà nổi dậy. Bệ hạ tuy không cho cơm ǎn, áo mặc, nhưng tui ở cõi xa, bấy lâu vẫn kính mến thánh đức. Bữa nay được nhìn thấy mặt trời, đủ thỏa được tấm lòng khao khát. Họ Trịnh vô đạo, hiếp đáp hoàng gia, nên trời mượn tay tui một trận phá ngay được, ấy là nhờ ở oai đức của bệ hạ.

Vua Lê ôn tồn đáp:

Â'y là võ công của tướng quân cả, chứ quả nhân nào có tài đức gì!

Nguyễn Huệ khiêm tốn thưa:

- tui chỉ tôn phò, đâu dám kể tới công lợi. Việc ngày nay vừa xảy ra như thế thật bởi lòng trời xui nên hết thảy... Thế là trời có ý xui bệ hạ phấn chấn kỷ cương, thống nhất bờ cõi. Từ giờ trở đi, mong bệ hạ cầm cương, nảy mực, khiến cho trong ấm ngoài êm, tui đây cũng được ơn nhờ.

Vua Lê sai các cựu thần Trần Công Sáng, Phan Lê Phiêu, Uông Sĩ Diển ra tiếp chủ súy Tây Sơn. Sau cuộc gặp gỡ này, thiên hạ yên lòng, chợ lại họp, ruộng lại cày, tình hình trong nước dần dần ổn định.

Theo lời Nguyễn Hữu Chinh chỉ vẽ, Nguyễn Huệ xin vua Lê cho thiết lễ đại triều ở điện Kính thiên để Huệ dâng sổ sách quân dân, tỏ cho toàn thiên hạ rõ chuyện tôn phò đại thống. Cử chỉ này của Nguyễn Huệ khiến ông vua cao tuổi Lê Hiển Tông vô cùng xúc động, chứng kiến chuyện ban bố chiếu thư "nhất thống". Đáp lại công lao của chủ súy Tây Sơn, vua Lê sai sứ sang tận doanh quân thứ phong cho Nguyễn Huệ làm Nguyện Súy Dực chính phù vận Uy Quốc công. Nguyễn Huệ sai người sang cảm tạ vua Lê theo đúng lễ nhưng trong lòng không vui. Nguyễn Huệ nói với Nguyễn Hữu Chinh rằng:

Ta mang vài vạn quân ra đây, một trận dẹp yên Bắc Hà. Vậy thì một thước đất, một người dân bây giờ không phải của ta thì của ai vào đây nữa? Dẫu ta muốn xưng đế, xưng vương chi chi, ai còn dám làm gì nổi ta?

Thế mà ta còn nhường nhịn không làm, chẳng qua hậu đãi nhà Lê đó thôi, danh mệnh Nguyên súy, Quốc công có làm cho ta thêm hơn gì? Các đình thần Bắc Hà muốn lấy nước miếng cho cái danh hão, chực lung lạc ta sao? Đừng bảo ta là mán mọi, được thế vừa lấy làm vinh rồi đâu. Ta không nhận lấy, chắc người ta bảo ta thất lễ; ta nhận mà không nói ra, người ta lại cho ta là không biết gì!

Dứt lời, Nguyễn Huệ hầm hầm tức giận. Nhờ có Nguyễn Hữu Chinh là tay khéo dàn xếp, Huệ mới nguôi lòng. Sau khi trở thành phò mã nhà Lê, Nguyễn Huệ không trực tiếp can dự vào nội bộ triều Lê vì còn giữ tiếng. Khi vua Lê bị bệnh nặng, công chúa Ngọc Hân giục phò mã Nguyễn Huệ vào thǎm song ông từ chối:

- tui chẳng sớm thì chầy rồi cũng về Nam; chuyện nước không dám dự đến. Vả, tui xa xôi tới đây, chắc người ngoài Bắc hãy còn chưa tin mấy, nếu vô nội thǎm hỏi vua cha, muôn một xa giá chầu Trời, chẳng hóa ra tự mình chuốc lấy cái tiếng hiềm nghi không bao giờ giãi tỏ được"

Vào một đêm mưa to, gió dữ của tháng 7 nǎm Bính Ngọ (1786), thành Thǎng Long nước ngập dến một thước, vua Lê Hiển Tông qua đời ở tuổi thọ 70. Trước khi nhắm mắt ông còn kịp trối lại cho Hoàng tôn Duy Kỳ:

Quân bên ngoài đang đóng ở đây; truyền nối là chuyện quan trọng, cháu nên bàn cùng Nguyên súy (Nguyễn Huệ), chứ đừng tự tiện làm một mình.

Trái với những người muốn lập Hoàng tôn Duy Kỳ, công chúa Ngọc Hân khi được chồng hỏi nên lập ai lên ngôi báu, vừa nghiêng về Lê Duy Cận. Nghe lời vợ, Nguyễn Huệ muốn hoãn lễ đǎng quang của Duy Kỳ. Cả triều đình nao núng ngờ vực. Các tôn thất nhà Lê cho rằng công chúa Ngọc Hân cố tình làm lỡ chuyện lớn của triều đình và bảo sẽ từ mặt công chúa. Ngọc Hân sợ, vội nhân nhượng mà nói lại với Nguyễn Huệ thu xếp cho Duy Kỳ được nối ngôi.

Đến ngày lễ thành phục của nhà vua quá cố Lê Hiển Tông ở nội điện, Nguyễn Huệ thực hiện đầy đủ nghi lễ của phò mã: Rể mặc áo tang trắng, đứng trong điện dự lễ. Thấy viên tiểu lại có cử chỉ bất kính trong lúc làm lễ, Nguyễn Huệ lập tức sai lôi ra chém. Từ đó triều thần khiếp sợ và nghi lễ được cử hành hết súc tôn nghiêm. Ngày đưa linh cữu Vua xuống thuyền về Thanh Hóa để an táng, Nguyễn Huệ mặc tang phục đi hộ tang đến tận bến sông, lại sai bộ tướng là Trần Vǎn Kỷ và Nguyễn Hữu Chinh mặc áo tang trắng đi hộ tống đến lǎng Bàn Thạch. Mặc dù vừa mới trải qua binh đao, tang phục tuy đơn sơ, giản dị nhưng lễ nghi thì đầy đủ và trang trọng khác thường. Xong tang trở về, Nguyễn Huệ tự hào nói với công chúa Ngọc Hân:

Tiên đế có hơn 30 người con, thế mà không ngưòi nào bằng một mình nàng là gái. Trong chuyện tang tiên đế, mình với các anh em khác, ai hơn nào? Một thời (gian) gian sau Nguyễn Huệ đem công chúa Ngọc Hân cùng Nguyễn Nhạc rút quân về Nam, rồi được phong làm Bắc Bình Vương.



Lần ra Bắc thứ hai nǎm Mậu Thân (1788), khi Lê Chiêu Thống vừa bỏ kinh thành chạy ra ngoài, Bắc Bình Vương cũng vừa nghĩ đến chiếc ngai vàng bỏ trống, vừa triệu tập các cựu thần nhà Lê để tính việc, song không thuận lợi. Ông cho tổ chức lại hệ thống cai trị ở Bắc Hà, đưa những danh sĩ có tên tuổi vừa được Bắc Bình Vương trọng dụng như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy ích ra đảm đương công việc. Trí thức Bắc Hà lần lượt ra giúp Bắc Bình Vương như Trần Bá Lãm, Võ Huy Tấn... Sau khi vừa lập Sùng Nhượng công Lê Duy Cận lên làm Giám quốc, sắp đặt các quan coi chuyện Bắc Hà, một lần nữa Nguyễn Huệ lại rút quân về Nam.

Thế rồi không đầy 6 tháng sau, Bắc Bình Vương đang ở thành Phú Xuân thì được tin Lê Chiêu Thống vừa dẫn đội quân xâm lược Mãn Thanh vào chiếm đóng kinh thành Thǎng Long, quân đội Tây Sơn do Đại Tư mã Ngô Vǎn Sở chỉ huy phải tạm rút lui về đóng ở Tam Điệp - Biện Sơn chờ lệnh. Nguyễn Huệ lại lần thú ba ra Thǎng Long. Lần này ông ra Bắc với tư cách là Quang Trung hoàng đế. Thề theo lời khuyên của tướng lĩnh và lòng mong mỏi của ba quân cùng thần dân, Bắc Bình Vương cho chọn ngày, lập đàn tế trời đất, thần sông, thần nước và lên ngôi hoàng đế tại Phú Xuân, ngay hôm đó kéo cả quân bộ, quân thủy ra Bắc diệt quân xâm lược Thanh, giải phóng Thǎng Long và Bắc Hà.

Ngày 7 tháng Giêng nǎm Kỷ Dậu (1789) quân đội của Hoàng đế Quang Trung vừa vui vẻ ǎn tết khai hạ tại thành Thǎng Long. Hoa đào làng Nhật Tân còn đang nở rộ đón chào chiến thắng.

Việc binh lại giao cho Ngô Vǎn Sở và Phan Vǎn Lân, chuyện ngoại giao và chính trị giao cho Ngô Thì Nhậm và Phan Huy ích, lần thứ ba Nguyễn Huệ vừa ra Bắc rồi lại về Nam. Lần này với tư thế là Hoàng đế, Quang Trung gấp rút tiến hành chuyện xây dựng kinh đô mới ở Nghệ An, nơi mà từ xưa là quê gốc của anh em Tây Sơn và trong con mắt của Quang Trung là trung gian Nam và Bắc. Mặt khác, theo kế hoạch ngoại giao vừa được Quang Trung vạch ra: bình thường mối bang giao với nhà Thanh. Triều đình Quang Trung vừa buộc sứ Thanh phải vào tận Thuận Hóa phong vương cho Nguyễn Huệ; rồi Hoàng đế Quang Trung giả vừa sang triều kiến và dự lễ mừng thọ 80 tuổi của vua Càn Long nhà Thanh. Dưới thời (gian) trị vì ngắn ngủi của triều Quang Trung, nhiều chính sách về xã hội, chính trị và kinh tế được ban hành khá độc đáo, mở ra những triển vọng cho một xã hội nǎng động hơn. Song chưa được bao lâu cǎn bệnh đột ngột và hiểm cùng kiệt đã cướp đi cuộc sống của ông vua đầy tài nǎng có những dự định lớn lao, mới ở tuổi 40.

Nǎm Nhâm Tý (1792), sau nhiều lần bắn tin rồi lại gửi thư trực tiếp đến vua nhà Thanh xin được sánh duyên cùng một nàng công chúa Bắc quốc và mượn đất đóng đô, vua Quang Trung vừa sai đoàn sứ bộ do Vũ Vǎn Dũng làm chánh sứ sang triều kiến vua Thanh Càn Long. Trong một cuộc bệ kiến của sứ thần Vũ Vǎn Dũng ở Y' lương các, những yêu cầu của vua Quang Trung vừa được vua Thanh chấp thuận. Vua Càn Long đang chuẩn bị cho cô công chúa khuê các sang đẹp duyên cùng Quốc vương nước Nam; Quảng Tây được hứa sẽ nhường cho Quốc vương phò mã đóng đô để cho gần "Thánh giáo". Giữa lúc sứ thần đang mừng vui vì sắp hoàn thành một trọng trách quá sức mình, thì được tin sét đánh: Vua Quang Trung từ trần. Mọi chuyện đều bị gác lại, Vũ Vǎn Dũng đành ôm hận trở về. Rồi từ đó, chuyện xin lại đất Lưỡng Quảng chỉ là câu chuyện lịch sử mà cơ đồ của vương triều Tây Sơn cũng dần dần tan theo giấc mộng xuân của nàng công chúa Mãn Thanh.

Một chiều đầu thu, vua Quang Trung đang ngồi bỗng thấy hoa mắt, sầm tối mặt mũi, mê man bất tỉnh. Người xưa gọi đó là chứng "huyễn vận" còn ngày nay y học gọi là tai biến mạch máu não. Khi tỉnh dậy được, nhà vua triệu trấn thủ Nghệ An Trần Quang Diệu về triều bàn chuyện thiên đô ra Nghệ An. Nhưng chuyện chưa quyết xong thì bệnh tình nhà vua vừa nguy kịch. Trước khi mất, nhà vua dặn Trần Quang Diệu và các quần thần:

Ta mở mang bờ cõi, khai thác đất đai, có cả cõi Nam này. Nay đau ốm, tất không khỏi được. Thái tử (Nguyễn Quang Toản) là người có tư chất nhưng tuổi còn nhỏ. Ngoài thì có quân Gia Định (Nguyễn A'nh) là quốc thù; mà Thái Đức (Nguyễn Nhạc) thì tuổi già, ham dật lạc, cầu yên tạm bợ, không toan tính cái lo về sau. Khi ta chết rồi, nội trong một tháng phải chôn cất, chuyện tang làm lao thảo thôi. Lũ ngươi nên hợp sức mà giúp Thái tử sớm thiên đô về Vĩnh Đô (Vinh ngày nay) để khống chế thiên hạ. Bằng không, quân Gia Định kéo đến thì các ngươi không có chỗ chôn đâu!



Ngày 29 tháng 7 nǎm Nhâm Tý (1792) vào khoảng 11 giờ khuya, Quang Trung từ trần, ở ngôi 5 nǎm, thọ 40 tuổi miếu hiệu là Thái tổ Vũ hoàng đế. Thi hài ông được tâng ngay trong thành, tại phủ Dương Xuân. Sau này khi Nguyễn A'nh lấy được Phú Xuân vừa sai quật mồ mả lên để trả thù.

Nguyễn Quang Toản lên nối ngôi, sai sứ sang nhà Thanh báo tang và xin tập phong. Vua Càn Long thương tiếc tặng tên hiệu là Trung Thuần, lại thân làm một bài thơ viếng và cho một pho tượng, 300 lạng bạc để sửa sang chuyện tang. Sứ nhà Thanh đến tận mộ ở Linh Đường (mộ giả) thuộc huyện Thanh Trì (Hà Nội) để viếng.



Cảnh Thịnh Hoàng đế

Niên hiệu: - Cảnh Thịnh (1792-1801)

- Báo Hung (1801-1802)

Quang Trung mất ở tuổi 40 mà các con còn nhỏ. Quang Toản là con trưởng cũng mới lên 10. Bình sinh Quang Trung vừa lập Quang Toản lên Thái tử. Sự lựa chọn này có lẽ là chính xác.

Nǎm Quý Sửu (1793) Quang Toản chính thức lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Cảnh Thịnh, sai Ngô Thì Nhậm sang nhà Thanh báo tang và xin sắc phong. Vua Thanh vốn vừa sắc phong cho Quang Toản làm Thái tử khi vua Quang Trung còn sống nên lập tức xuống chỉ phong Toản làm An Nam Quốc vương. Án sát Quảng Tây được lệnh làm sứ thần đến Bắc Thành, Quang Toản cũng sai người đóng giả nhận thay. Sứ thần nhà Thanhh có biết chuyện ấy song không có phản ứng gì.

Quang Toản lên ngôi vua, vẫn để hai em là Quang Thùy và Quang Bàn giữ tước vị, dùng cậu là Bùi Đắc Tuyên làm Thái sư Giám quốc trông coi tất cả việc trong ngoài, Thái úy Phạm Công Hưng giữ chuyện quân; Trung thủ phụng chính Trần Vǎn Kỷ làm ở Trung thư cơ mật, và Trần Quang Diệu giữ chuyện vǎn thư lệnh thị. Quang Toản tuổi còn nhỏ, tất cả việc đều quyết định bởi Bùi Đắc Tuyên. Từ đó Đắc Tuyên ngày càng chuyên quyền, trong ngoài đều oán. Đại thần trong triều ngoài trấn nghi kỵ lẫn nhau, Quang Toản không ngǎn chặn nổi đành chỉ khóc lóc mà thôi. Giữa lúc đó lại có cận thần gièm pha rằng, oai quyền của Trần Quang Diệu quá lớn, mưu đồ cướp ngôi... Quang Toản tin là thật, liều rút hết binh quyền của Trần Quang Diệu. Trần Quang Diệu gửi mật (an ninh) thư vào Qui Nhơn hẹn với Lê Vǎn Trung đem quân ra phế hạ Quang Toản, lập Quang Thiệu lên ngôi. Việc không thành, Quang Thiệu bị giết; Lê Vǎn Trung bị chém. Con rể Lê Vǎn Trung là Lê Chất sợ hãi, bỏ Tây Sơn sang hàng Nguyễn Ánh. Về sau Lê Chất đem quân của Nguyễn Ánh ra đánh thắng Tây Sơn tịch thu hết quân trang, quân dụng.

Nǎm Canh Thân (1800) Nguyễn Á'nh vượt biển ra đánh thành Qui Nhơn, tướng Tây Sơn là Vũ Tuấn đầu hàng. Nguyễn Ánh chiếm thành Qui Nhơn đổi là trấn Bình Định, giao cho Võ Tánh và Ngô Tòng Chu giữ thành. Quân Tây Sơn bao vây nhiều tháng mà không hạ được vì Võ Tánh và Ngô Tòng Chu liều chết giữ thành. Nǎm Tâm Dậu (1801) Nguyễn Ánh ra đánh Phú Xuân. Quang Toản dốc sức chống giữ không nổi, Phú xuân bị chiếm, Quang Toản phải chạy ra Bắc Hà, đổi niên hiệu là Bảo Hưng. Tháng 8 nǎm đó, Quang Toản đem quân bốn trấn Hải Dương, Sơn Tây, Sơn Nam, Kinh Bắc và quân Thanh Nghệ vào đánh Nguyễn A'nh, lại thua, vội rút về Thǎng Long.

Ngày 16 tháng 6 nǎm Nhâm Tuất (1802) Nguyễn Ánh ra đánh Thǎng Long, khí thế rất mạnh, Quang Toản cùng hai em là Quang Thùy bỏ thành chạy theo hướng Bắc, bị thổ hào Kinh Bắc bắt được, đóng cũi đưa về Thǎng Long. Quân Tây Sơn đến đây hoàn toàn tan rã. Mùa đông nǎm đó (1802) Nguyễn Ánh về Phú Xuân cáo tế miếu, trả thù Tây Sơn cực kỳ tàn bạo và hèn hạ, Quang Toản và những người thân bị hành hình... ấp Tây Sơn đổi thành ấp An Tây, tất cả dấu ấn Tây Sơn đều bị họ Nguyễn xóa sạch.

Quang Toản lên ngôi vua nǎm Quý Sửu (1793) đến nǎm Nhâm Tuất (1802) thì mất, ở ngôi 10 nǎm, chết ở tuổi 20. Triều Tây Sơn kể từ vua Thái Đức đến hết Cảnh Thịnh (1778-1802), tồn tại được 25 nǎm.
 

tinh_thu

New Member
Vương triều Tây Sơn chỉ tồn tại trong một thời (gian) gian ngắn (1788 – 1802) với hai đời vua: Quang Trung (1788 – 1792) và Cảnh Thịnh (1792 – 1802), sau đó phải đối mặt với sự trả thù của triều Gia Long. Nhiều sử liệu quan trọng của vương triều này bị phá hoại, xuyên tạc, bôi nhọ. Trên đất Thanh Hóa ngày nay vẫn còn giữ được nhiều tư liệu quý về vương triều này.



Vương triều Tây Sơn tồn tại trong 14 năm nhưng thật sự chỉ cai quản vùng đất Thanh Hóa trong khoảng 12 năm. Với tầm nhìn chiến lược của một nhà quân sự thiên tài, Quang Trung vừa dành mối quan tâm đặc biệt đến vùng đất này.



Năm 1788, sau khi tiến quân ra Bắc Hà và trở lại Phú Xuân, Quang Trung vừa cho Tuấn Đức hầu chỉ huy đạo Trung Khuông và Miên Tường hầu chỉ huy đạo Nam Khuông, lưu lại trấn giữ vùng đất xứ Thanh. Đồng thời, cử luôn đô đốc Đặng Tiến Đông làm Trấn thủ Thanh Hóa (1).



Sau khi lên ngôi hoàng đế, theo lời bàn của Ngô Thì Nhậm, Hoàng đế Quang Trung vừa phân phong cho các con trai trấn giữ những khu vực có tầm quan trọng sống còn. Đất Thanh Hóa – đất của “vua Lê, chúa Trịnh” được các tướng lĩnh Quang Trung nhìn nhận là một địa bàn chiến lược, một vùng đất hiểm yếu nên vừa cho đại quân Tây Sơn rút lui về trấn giữ trước sự tấn công ồ ạt của giặc Mãn Thanh và cũng từ đây tạo bàn đạp cho đại quân Quang Trung phá tan quân xâm lược trong trận chiến lừng danh lịch sử - mùa xuân Kỷ Dậu 1789. Quang Trung vừa giao cho con trai thứ ba là Nguyễn Quang Bàn trấn giữ đất Thanh Hóa. Nguyễn Quang Bàn được phong chức Chuyên công lĩnh – Đốc trấn Thanh Hoa (tên gọi cũ của Thanh Hóa).



Thời Tây Sơn, trấn Thanh Hoa bao gồm Thanh Hoa nội trấn và Thanh Hoa ngoại trấn. Thanh Hoa ngoại trấn vốn là hai phủ: Trường Yên và Thiên Quang của Sơn Nam lệ vào từ thời (gian) Trung Hưng khoảng năm Quang Trung thứ 5 (1792). Thanh Hoa ngoại trấn đổi thành đạo Thanh Bình (2).



Hoàng đệ tuyên công Nguyễn Quang Bàn theo sự phân phong của Quang Trung vừa đến trấn giữ vùng đất Thanh Hóa và xây dựng ở đây một “tiểu triều”. Các công trình kiến trúc mang niên đại Tây Sơn trên đất Thanh Hóa đến nay không còn nhưng những chủ trương, chính sách, biện pháp mà Vương triều Tây Sơn vừa thực thi trên đất này vẫn còn nhiều cứ liệu.



Sách vở, tư liệu mới phát hiện trong thời (gian) gian gần đây trên địa bàn Thanh Hóa vừa cho chúng ta thấy nhiều vấn đề có liên quan đến những cải cách, chủ trương phát triển văn hóa, giáo dục, xã hội của Vương triều Tây Sơn.



Về văn hóa, sự kiện để lại ấn tượng nhất được các tài liệu xưa nhắc đến nhiều là chuyện Đốc trấn Nguyễn Quang Bàn vào năm 1802 vừa tiến cúng một trống đồng cổ vào đền thờ thần đồng cổ ở núi Tam Thai thuộc Đa Nê (Yên Định). Sự chuyện này được lưu lại bằng một văn bản khắc gỗ được lưu giữ trong đền thờ thần đồng cổ. Sau này, triều Gia Long có biết điều đó nhưng không dám đả động đến vì thần đồng cổ vừa đi vào thần điện ở kinh thành Thăng Long.



Cùng với chuyện tiến cúng trống đồng vào đền thờ thần, trong thời (gian) gian này Vương triều Tây Sơn còn cho tu bổ, sửa chữa nhiều di tích tôn giáo, tín ngưỡng, đình chùa, miếu mạo khác. Điển hình là chuyện nhà Tây Sơn cho tu sửa lại chùa Hoàng Môn là một chùa lớn ở xã Hoằng Đạt, huyện Hoằng Hóa. Chùa Hoàng Môn được tu sửa và đúc thêm chuông mới. Cho đến nay quả chuông có niên đại Tây Sơn ở chùa Hoàng Môn vẫn còn được lưu giữ ở Bảo tàng huyện Hoằng Hóa. Đây là một tư liệu quý, một hiện vật có giá trị lịch sử mà Vương triều Tây Sơn gửi lại với thời (gian) gian. Cùng với chuyện tu sửa, trùng tu lại chùa Hoàng Môn, Đốc trấn Thanh Hoa còn cho sửa sang, mở đường vào các đình chùa, miếu mạo khác; điển hình như chuyện đắp thêm đường vào đền thờ ở chân núi Mã Yên thuộc huyện Đông Sơn. Sự chuyện này được bia khắc trên núi Đông Sơn ghi lại (rất may, tấm bia này ở trên núi cao nên vẫn còn lưu giữ được, không bị đục phá mất niên hiệu) (3).



Về mặt giáo dục, nhà Tây Sơn có nhiều biện pháp tích cực khuyến khích chuyện học hành, mở mang giáo dục. Sự chuyện có ý nghĩa nhất của Vương triều Tây Sơn trên đất Thanh Hóa đó là cho sửa sang, tu chỉnh lại các văn thánh; điển hình như chuyện tu sửa lại hai văn thánh lớn ở phủ Thiệu Thiên và phủ Tĩnh Gia. Văn bia Phủ Cảnh mới được biết đến gần đây có niên đại Cảnh Thịnh thứ 6 cho biết: Hoàng thái tử Tuyên Quận công Nguyễn Quang Bàn vừa “nêu cao đạo học” bằng cách cho sửa sang lại văn thánh phủ Tĩnh Gia, mua sắm thêm các đồ cúng tế đủ cho tất cả việc phụng sự ở văn thánh này. Đích thân Tuyên Quận công Nguyễn Quang Bàn vừa “Tiến dâng chuông lớn một quả, trống lớn một cái có đủ giá treo và người coi sóc” (4). Đến triều Gia Long, văn thánh này bị phá hủy chỉ còn lại một tấm bia bị đục mất niên hiệu và hai con rùa đá lớn.



Đến đời Cảnh Thịnh, nhà Tây Sơn phải đối phó với nhiều khó khăn, vương triều này vừa có nhiều chao đảo nhưng chuyện mở mang đường sá, cầu cống ở Thanh Hóa vẫn được chú ý. Tài liệu mới phát hiện ở Thanh Hóa cho thấy: dưới thời (gian) Cảnh Thịnh một số cây cầu lớn vừa được xây dựng, như các cầu: Dương Xá, Đông Côi, Bố Vệ, Ngọc Long. Các cầu này đều được xây dựng theo kiểu kiến trúc thời (gian) Lê: Thượng gia hạ kiều. Việc xây dựng những cây cầu này đều vừa được dựng bia ghi chép lại (5).



Dưới Vương triều Tây Sơn, một số quan lại trấn giữ ở vùng đất này tỏ ra rất trung thành, tận tụy và được nhân dân có cảm tình. Điển hình là khâm sai trấn thủ đại tu vũ Miên quận công “là một bề tui của Tây Sơn, hết lòng lo cho dân” được dân kính trọng (Ngọc Long kiều bi ký) (6). Do những chính sách tiến bộ của Vương triều Tây Sơn được thực thi trên đất Thanh Hóa, nên vừa xóa đi được mặc cảm của người dân “vùng đất của vua Lê”. Đại đa số nhân dân đều có cảm tình với phong trào Tây Sơn và vương triều này.



Câu ca dao:



Anh đi theo chúa Tây Sơn



Em về cày cấy mà thương mẹ già.



Đã phản ánh tâm thức dân gian của nhân dân Thanh Hóa.



Trên đây là một số tư liệu mới được sưu tầm, thẩm định và công bố ở Thanh Hóa có liên quan đến Vương triều Tây Sơn. Hy vọng rằng còn nhiều tư liệu quan trọng khác có liên quan sẽ được tiếp tục công bố lũy phần vào chuyện nghiên cứu Vương triều Tây Sơn và vị trí của nó trong lịch sử dân tộc.





Tiến sĩ Phạm Văn Đấu (Khoa xã hội Trường ĐH Hồng Đức- Thanh Hóa) và Tiến sĩ Hà Mạnh Khoa (Hà Nội)
 
Lật đổ chúa Nguyễn

Chính sự họ Nguyễn

Sau khi Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát chết, chính quyền họ Nguyễn rơi vào tay quyền thần Trương Phúc Loan. Loan thao túng triều chính, tự xưng là "Quốc phó", giết Nguyễn Phúc Luân (cha Nguyễn Phúc Ánh) và lập Nguyễn Phúc Thuần, lúc đó mới 12 tuổi lên ngôi, tức là Định vương.

Năm 1769, vị vua mới của nước Xiêm là P'ya Taksin tức Trịnh Quốc Anh tung ra một cuộc chiến nhằm tìm cách lấy lại quyền kiểm soát nước Chân Lạp (Campuchia) vốn chịu nhiều ảnh hưởng của chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn buộc phải lùi bước khỏi những vùng đất mới chiếm.

Chính sự họ Nguyễn ngay từ thời (gian) Nguyễn Phúc Khoát vừa gây những ảnh hưởng tiêu cực cho dân chúng. Hệ thống thuế khóa phức tạp, cồng kềnh, nặng nề, quan dưới lạm thu khiến dân phải nộp nhiều hơn quy định[7]. Thuế thổ sản có tới hàng ngàn thứ, tính cả những sản vật nhỏ nhặt[8]. Năm 1741, Phúc Khoát ra lệnh truy thu thuế của cả những người bỏ trốn. Tới năm 1765 lại có lệnh truy thu thuế còn thiếu của 10 năm trước[9]

Sang thời (gian) Trương Phúc Loan nắm quyền, dân Đàng Trong càng bị bóc lột nặng nề hơn. Loan nổi tiếng là tham lam, vơ vét của công, mua quỵt của các thương nhân nước ngoài. Có đợt sau trận lụt, nhà Loan bày vàng ra phơi "sáng chóe" cả sân[10].

Thất bại trước những cuộc đụng độ với Xiêm La cộng với sưu thuế nặng nề cùng tình trạng tham nhũng tại địa phương khiến cho chính quyền họ Nguyễn vừa yếu càng yếu thêm. Đó chính là thời (gian) cơ để ba anh em Tây Sơn bắt đầu khởi nghĩa chống lại chúa Nguyễn.

Tây Sơn khởi nghĩa



Hỏi về Vương triều Tây Sơn và nhân vật Quang Trung? Hỏi về Vương triều Tây Sơn và nhân vật Quang Trung?

Một nhóm người Đàng Trong tại Tourane tức Đà Nẵng thời (gian) Tây Sơn-Tranh của họa sĩ người Anh William Alexander



Khởi phát từ ấp Tây Sơn, ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ tập hợp lực lượng, ban đầu chủ yếu là người Thượng, đứng lên khởi nghĩa. Lấy danh nghĩa chống lại Quốc phó Trương Phúc Loan, ủng hộ hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương là cháu đích tôn của Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát, Nguyễn Nhạc phất cờ nổi dậy năm 1771. Bởi Tây Sơn mang danh nghĩa ủng hộ hoàng tôn Dương và khi đánh trận thường la ó ầm ĩ nên dân gian có câu:

"Binh triều là binh Quốc phó Binh ó là binh Hoàng tôn" Tây Sơn có được sự ủng hộ rất lớn của dân chúng, không chỉ những người nông dân cùng kiệt mà cả một số sắc dân thiểu số và lực lượng người Hoa như hai đạo quân của Lý Tài, Tập Đình. Lực lượng Tây Sơn không những đánh đâu thắng đó mà còn nổi tiếng vì bình đẳng, bình quyền, không tham ô của dân và lấy của người giàu chia cho người nghèo. Điều đó được các giáo sĩ Tây Ban Nha, điển hình là Diego de Jumilla ghi lại, sách Les Espagnols dans l’Empire d’Annam trích dẫn như sau:

"Ban ngày họ xuống các chợ, kẻ đeo gươm, người mang cung tên, có ngưòi mang súng. Họ không hề làm thiệt hại đến người và của. Trái lại họ tỏ ra muốn bình đẳng giữa tất cả người Đàng Trong; họ vào nhà giàu, nếu đem nộp họ ít nhiều thì họ không gây tổn hại, nhưng nếu chống cự lại thì họ cướp lấy những của quý đem chia cho người nghèo; họ chỉ giữ gạo và lương thực cho họ mà thôi... Người ta gọi họ là bọn cướp đạo đức và nhân từ đối với quần chúng cùng kiệt khổ..."[11]. Sau khi đứng vững ở địa bàn ấp Tây Sơn, năm sau, cuộc khởi nghĩa lan rộng lớn và nghĩa quân vừa thắng một số trận chống lại quân chúa Nguyễn được phái tới trấn áp cuộc khởi nghĩa.

Năm 1773 quân Tây Sơn dùng mưu đánh chiếm được thành Quy Nhơn. Tương truyền Nguyễn Nhạc tự ngồi vào cũi cho quân lính của mình khiêng đến trá hàng, nộp quân họ Nguyễn. Nửa đêm, ông phá cũi, cùng quân trá hàng làm nội ứng và quân bên ngoài tới phối hợp đánh chiếm thành. Thành này là nơi các nhà buôn, vì vừa phải chịu nhiều luật lệ ngăn cấm do triều đình họ Nguyễn đưa ra, vừa quay sang ủng hộ tài chính cho Tây Sơn.

Sau khi hạ thành Quy Nhơn, quân Tây Sơn nhanh chóng đánh xuống phía nam, kiểm soát vùng đất từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận.

Quân Trịnh tham chiến

Họ Nguyễn, khi cuối cùng vừa nhận ra sự nguy hiểm của cuộc khởi nghĩa, vừa ký hòa ước với người Xiêm, từ bỏ một số vùng họ vừa chiếm được trong những thập kỷ trước đó. Tuy nhiên không vì thế mà họ Nguyễn được rảnh tay đánh Tây Sơn. Tháng 10 năm 1774, chúa Trịnh Sâm, sau 100 năm giữ hòa bình với chúa Nguyễn, sai Quận Việp Hoàng Ngũ Phúc, một viên tướng lão luyện, mang 4 vạn quân vào nam tấn công Phú Xuân (Huế), cũng lấy danh nghĩa trừng phạt Trương Phúc Loan. Mặc dù chúa Nguyễn Phúc Thuần buộc phải trói Loan nộp cho Hoàng Ngũ Phúc nhưng rồi quân Trịnh vẫn tiến. Quân Nguyễn không chống nổi, quân Trịnh chiếm thành Phú Xuân, buộc họ Nguyễn phải bỏ chạy về Quảng Nam. Nhưng tại đây chúa Nguyễn lại bị Tây Sơn đánh ra uy hiếp, bắt được hoàng tôn Dương. Chúa Nguyễn cùng thế phải vượt biển trốn vào Gia Định (tức Sài Gòn). Hoàng tôn Dương sau đó cũng dùng kế trốn thoát theo chúa Nguyễn.

Quân Trịnh tiếp tục đi về phía nam vượt đèo Hải Vân và đụng độ với quân Tây Sơn ở Quảng Nam. Quân Tây Sơn thua trận. Trước tình thế "lưỡng đầu thọ địch", Nguyễn Nhạc xin giảng hòa với quân Trịnh, trên danh nghĩa đầu hàng nhà Lê, xin làm tiên phong đi đánh chúa Nguyễn ở Gia Định. Chúa Trịnh bằng lòng và phong chức cho Nguyễn Nhạc.

Tiến đánh Gia Định

Tạm yên mặt bắc, Tây Sơn tập trung lực lượng tiếp tục chuyện chinh phục phía nam. Trong gần 10 năm (từ 1776 đến 1783) quân Tây Sơn nhiều lần vào đánh chiếm Gia Định. Năm 1777, dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huệ, quân Tây Sơn bắt được cả Định vương Thuần lẫn Hoàng tôn Dương đem xử tử. Một cháu trai là Nguyễn Ánh, con của Nguyễn Phúc Luân, lúc đó 15 tuổi, chạy thoát ra đảo Thổ Chu.

Mỗi năm cứ đến mùa gió thuận thì binh Tây Sơn trẩy thuyền vào Nam ruồng kiếm, quyết tận diệt dòng Nguyễn Phúc[12].

Tuy nhiên, lần nào cùng vậy, sau khi chiếm được Gia Định, chủ tướng (Nguyễn Lữ hay Nguyễn Huệ) và quân chủ lực của Tây Sơn rút về giao lại cho một bộ tướng coi giữ, chỉ một thời (gian) gian sau lực lượng họ Nguyễn lại tụ tập và nhanh chóng chiếm lại vùng Nam Bộ. Nguyễn Ánh được tướng Đỗ Thanh Nhân (Nhơn) đón và lập làm chúa Nguyễn mới (1778). Ánh tụ tập lại lực lượng trung thành, khởi binh từ đất Long Xuyên, đánh đuổi quân trấn thủ Tây Sơn tại Gia Định, lấy lại thành Sài Côn. Bấy giờ Nguyễn Ánh mới được các tướng tôn làm Đại nguyên súy, Nhiếp quốc chính. Năm 1780, Nguyễn Ánh xưng vương.

Quân Tây Sơn nhiều lần đánh vào nam và truy sát nhưng nhờ may mắn, Ánh đều trốn thoát, có lần phải lênh đênh ngoài biển dưới bão mấy ngày.

Đến năm 1783, sau khi Nguyễn Huệ ra quân lần thứ tư, quân Nguyễn thua to, quân Nguyễn Ánh bị đánh bật khỏi nước Đại Việt. Nguyễn Ánh bỏ chạy, trốn thoát sang Xiêm.

Hỏi về Vương triều Tây Sơn và nhân vật Quang Trung? Hỏi về Vương triều Tây Sơn và nhân vật Quang Trung?

Triều đường chi ân của nhà Tây Sơn


Khi cơ bản chinh phục được họ Nguyễn, tăng cường sức mạnh và uy thế, năm 1778, sau khi giết được Nguyễn Phúc Thuần và Nguyễn Phúc Dương, Nguyễn Nhạc tự xưng làm vua, lập triều đại Tây Sơn, đặt niên hiệu là Thái Đức, đóng đô tại thành Quy Nhơn (thành Đồ Bàn cũ của nước Chiêm Thành), đổi tên thành Hoàng đế thành, phong cho Nguyễn Lữ làm Tiết chế, Nguyễn Huệ là Long Nhương tướng quân, không ràng buộc với chúa Trịnh nữa.

Tàn phá Nam Bộ

Sử sách nhà Nguyễn đối địch với nhà Tây Sơn ghi lại chuyện tàn phá vùng Nam Bộ của Tây Sơn trong những cuộc chinh chiến. Sách Lịch sử Gia Định-Sài Gòn trước 1802 dẫn lại từ Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, 1 viên quan của nhà Nguyễn năm 1820, 38 năm sau cuộc tàn sát người Hoa ở Gia Định của quân Tây Sơn[13] ghi lại chuyện quân Tây Sơn làm trong những lần nam tiến:

"Năm 1776 khi mới tiến vào Gia Định thì quân Tây Sơn vừa tàn phá Cù lao Phố, một vùng thương mại sầm uất bậc nhất xứ Đàng Trong. Họ dỡ phòng ốc gạch, ngói đem hết về Quy Nhơn khiến dân cư bỏ chạy lưu tán khắp nơi. Năm 1778 khi chúa Nguyễn vừa giành lại được Cù lao Phố thì kiểm điểm lại, dân cư còn chưa tới 1% lúc trước"[14]. "Từ Bến Nghé tới Sài Gòn xác chết ngổn ngang, vứt cả xuống sông, nước không chảy được, hai ba tháng sau dân cũng không dám ăn tôm, cá... tất cả người đều khổ sở". Đánh bại liên quân Xiêm - Nguyễn

Bài chi tiết: Chiến tranh Xiêm-Tây Sơn

Trong thời (gian) gian còn chống trả Tây Sơn tại Nam Bộ, Nguyễn Ánh nhiều lần thông qua giám mục Pigneau de Béhaine (hay Bá Đa Lộc) để cầu viện người Pháp nhưng không thu được nhiều kết quả. Do đó Ánh có ý chuyển sang cầu viện ở Xiêm La.

Tháng 2 năm Giáp Thìn (1784), Nguyễn Ánh từ Hà Tiên sang Xiêm La hội kiến với vua Xiêm La là Chất Tri (Chakri, Rama I) tại Vọng Các (Bangkok). Theo quan điểm của các tác giả Việt Nam hiện đại là Nguyễn Lương Bích và Phạm Ngọc Phụng thì đây là lần "cõng rắn cắn gà nhà" đầu tiên của Nguyễn Ánh[15].

Vua Xiêm sai hai tướng là Chiêu Tăng, Chiêu Sương đem 2 vạn quân thủy cùng 300 chiến thuyền. Ngoài ra còn có 3 vạn quân bộ tiến sang Chân Lạp với danh nghĩa giúp vua Chân Lạp, thực chất với ý đồ tạo gọng kìm phía Tây, chờ thời cơ tiêu diệt quân Tây Sơn.

Quân Xiêm nhanh chóng lấy được Rạch Giá, Ba Thắc, Trà Ôn, Mân Thít, Sa Đéc. Tuy nhiên, do ỷ thế đi đến đâu quấy nhiễu dân sự, làm nhiều điều tàn ác, cho nên bị dân chúng oán hận, ngay cả chúa Nguyễn Ánh cũng phải nói trong 1 bức thơ gởi cho linh mục J. Liot: "Nay thì Xiêm binh đại tứ lỗ lược, dâm nhơn phụ nữ, lược nhân tài vật, túng sát bất dung lão thiếu. Vậy nên Tây tặc binh thế nhựt thạnh, Xiêm binh thế nhựt suy. Cớ ấy qua tháng chạp, mùng tám vừa thất lợi, các giai hội tản”... [16].

Tướng Tây Sơn giữ đất Gia Định là phò mã Trương Văn Đa, thấy quân Xiêm thế lực mạnh, bèn cố thủ tại Gia Định và sai người về Quy Nhơn báo. Vua Tây Sơn sai Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ đem quân vào đánh.

Trận Rạch Gầm - Xoài Mút



Bài chi tiết: Trận Rạch Gầm - Xoài Mút

Sau khi vào Gia Định, Nguyễn Huệ cho bố trí trận địa và nhử quân Xiêm đến gần Rạch Gầm và Xoài Mút ở phía trên Mỹ Tho, rồi đánh một trận, tiêu diệt quân Xiêm.

Đêm 19 rạng 20 tháng 1 năm 1785 (đêm 9 rạng 10 tháng 12 năm Giáp Thìn), quân Xiêm lợi dụng thủy triều xuôi theo dòng sông để tấn công Mỹ Tho nhằm phá vỡ đội thuyền phòng thủ của Tây Sơn. Quân Tây Sơn giả thua rút dần về hướng Mỹ Tho, nhử đối phương lọt vào trận địa mai phục đoạn Rạch Gầm - Xoài Mút. Khi quân Xiêm lọt vào trận mai phục, bất ngờ quân Tây Sơn bắn pháo ở cù lao Thới Sơn và bờ sông Tiền, khóa chặt hai đầu, dồn quân Xiêm vào thế "tiến thoái lưỡng nan". Bên cạnh đó, hỏa hổ ở hai bên bờ nã đạn tới tấp vào đội hình làm quân Xiêm rối loạn, tinh thần hoang mang rồi bỏ chạy. Cùng lúc đó, một đội thuyền cảm tử chở đầy rơm và những vật liệu dễ cháy đâm thẳng vào thuyền quân Xiêm làm cho số bị chìm, số bị cháy. Trong khi đó, cánh quân bộ Xiêm La ngay từ đầu vừa bị quân Tây Sơn chặn đánh không cho cứu viện.

Chỉ một trận quyết chiến diễn ra không đầy một ngày vừa tiêu diệt quân Xiêm, chỉ sót được vài nghìn người, chạy theo đường thượng đạo trốn về nước. Các tướng Chiêu Tăng, Chiêu Sương và Nguyễn Ánh phải bỏ chạy theo đường bộ về Xiêm La, 4000 quân chỉ còn lại 800. Cánh quân Xiêm trên bộ nghe tin thất trận cũng tan rã và tháo chạy.

Trận đánh chớp nhoáng là một kỳ tích của Nguyễn Huệ và quân Tây Sơn. Sau trận đánh này, quân Tây Sơn nổi tiếng đến mức số quân Xiêm còn lại phải thốt lên rằng: "Sợ Tây Sơn như sợ cọp"[17].

Đánh dẹp xong, Nguyễn Huệ đem quân về Quy Nhơn để đô đốc Đặng Văn Trấn ở lại trấn đất Gia Định.

[sửa] Lật đổ chúa Trịnh

Đánh chiếm Phú Xuân



Bài chi tiết: Chiến dịch Phú Xuân 1786

Tại Bắc Hà, năm 1782, Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm chết. Con nhỏ Trịnh Cán được lập. Phe người con lớn là Trịnh Tông (hay Trịnh Khải) làm binh biến, giết quan phụ chính là quận Huy Hoàng Tố Lý (cháu lão tướng Hoàng Ngũ Phúc) đưa Trịnh Tông lên ngôi, tức là Đoan Nam vương (1782-1786).

Một tướng cùng phe với quận Huy là Nguyễn Hữu Chỉnh không hợp tác với Trịnh Tông, bỏ chạy vào nam hàng Tây Sơn và được Nguyễn Nhạc rất tín nhiệm.

Bắc Hà ngày một suy yếu. Kinh thành Thăng Long bị quân kiêu binh - những kẻ có công tôn lập chúa Trịnh - càn quấy, tàn phá. Sau khi đánh bật được Nguyễn Ánh ra khỏi lãnh thổ, Nguyễn Nhạc quyết định đánh chiếm Phú Xuân (đất cũ của chúa Nguyễn). Năm 1786, ông cử Nguyễn Huệ làm tổng chỉ huy đánh ra Bắc.

Về phía Trịnh, năm 1775, sau khi nhận hàng Nguyễn Nhạc, lão tướng Hoàng Ngũ Phúc rút đại quân về Bắc, để lại Phạm Ngô Cầu và Hoàng Đình Thể giữ thành Phú Xuân, sau đó không lâu qua đời.

Nguyễn Huệ lập kế lung lạc chủ tướng Phạm Ngô Cầu[18]. Nguyễn Hữu Chỉnh lại dùng kế ly gián Cầu và phó tướng Hoàng Đình Thể[19]. Quân Tây Sơn bất ngờ đánh úp thành Phú Xuân. Cầu bỏ mặc Thể chết trận, dâng thành hàng Tây Sơn[20].

Tiến ra Thăng Long

Bài chi tiết: Chiến dịch Thăng Long 1786

Hỏi về Vương triều Tây Sơn và nhân vật Quang Trung? Hỏi về Vương triều Tây Sơn và nhân vật Quang Trung?

Đền Quán Cháo ở Tam Điệp với truyền thuyết tiên nữ dâng cháo cho nghĩa quân Tây Sơn


Do sự thuyết phục của Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ quyết định đem quân ra Bắc đánh Thăng Long để diệt họ Trịnh dù chưa được lệnh của vua anh Nguyễn Nhạc.

Với danh nghĩa "Phù Lê diệt Trịnh", Nguyễn Huệ sai Chỉnh làm tiên phong Bắc tiến. Quân Trịnh rệu rã nhanh chóng thua trận, các danh tướng phần nhiều nghe tin Phú Xuân thất thủ vừa khiếp sợ, đến khi nghe quân Tây Sơn kéo ra, đa số vừa bỏ trốn. Chúa Trịnh không được lòng dân, bỏ thành Thăng Long chạy, bị dân bắt đem nộp Tây Sơn. Trên đường áp giải, Trịnh Tông tự sát.

Nguyễn Huệ vào thành Thăng Long yết kiến vua Lê Hiển Tông. Tuy về danh nghĩa Nguyễn Huệ trao trả quyền chính lại cho vua Lê và nhận phong Nguyên súy Dực chính phù vận Uy quốc công, nhưng trong thực tế, ông nắm toàn bộ quyền chính ở Bắc Hà. Do sự sắp xếp của Nguyễn Hữu Chỉnh, vua Lê Hiển Tông gả công chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ.

Tháng 7 năm 1786, vua Lê Hiển Tông qua đời, thọ 70 tuổi. Do ý kiến của công chúa Ngọc Hân thiên về lập hoàng thân Lê Duy Cận (anh của Ngọc Hân), Nguyễn Huệ muốn hoãn lễ đăng quang của Lê Duy Kỳ. Do áp lực của tôn thất nhà Lê đối với Ngọc Hân, Nguyễn Huệ đành thu xếp cho Lê Duy Kỳ lên ngôi vua, đó là vua Lê Chiêu Thống. Ít lâu sau, Nguyễn Huệ đem công chúa Ngọc Hân cùng Nguyễn Nhạc rút quân về Nam.

Dẹp Án Đô vương

Sau khi quân Tây Sơn rút đi, các thế lực của chúa Trịnh từng bỏ trốn khi Tây Sơn kéo ra như Đinh Tích Nhưỡng, Hoàng Phùng Cơ trỗi dậy, lập Trịnh Bồng lên ngôi vương, tức là Án Đô vương, tái lập chính quyền chúa Trịnh.

Vua Lê Chiêu Thống đang muốn chấn hưng nhà Lê bèn mời Nguyễn Hữu Chỉnh đang trấn ở Nghệ An ra dẹp Trịnh Bồng. Chỉnh nhanh chóng đánh tan quân Trịnh, đốt phủ chúa, Trịnh Bồng bỏ đi mất tích. Họ Trịnh mất hẳn, nhưng Nguyễn Hữu Chỉnh lại lộng hành như chúa Trịnh trước kia.

Mâu thuẫn nội bộ

Nguyên nhân

Sử sách không ghi chép thật rõ ràng về sự kiện mâu thuẫn giữa anh em Tây Sơn. Các sử gia nhà Nguyễn cho rằng tại Nguyễn Nhạc "tư thông" với vợ Nguyễn Huệ, nhưng lý do này có vẻ không xác đáng. Có tài liệu nói rằng Nguyễn Nhạc yêu cầu Nguyễn Huệ nộp vàng bạc lấy từ kho của họ Trịnh ở Bắc Hà mang về Nam nhưng vua em không chịu; hơn thế vua em lại xin vua anh cho cai quản thêm Quảng Nam và vua anh không chấp thuận, do đó Nguyễn Huệ chủ động mang quân vào nam đánh Nguyễn Nhạc. Ý kiến sau có vẻ xác đáng hơn.

Có ý kiến bàn thêm rằng, chủ trương của Nguyễn Nhạc là tập trung tiêu diệt chúa Nguyễn, chỉ đánh chiếm phần đất của chúa Nguyễn để thay thế cai trị tại miền Nam và giữ hòa bình với Bắc Hà, cho nên chuyện Nguyễn Huệ tự ý đem quân Bắc tiến là trái ý vua anh. Ngay khi biết tin Nguyễn Huệ đánh Thăng Long, vua Tây Sơn vội mang quân ra Bắc, thực chất là để gọi em về. Mặt khác, Nguyễn Nhạc không yên tâm với sự phát triển thế lực riêng của Nguyễn Huệ. Trong khi đó, là người có hùng tâm, Nguyễn Huệ có chủ trương tự lực phát triển ra ngoài tầm kiềm chế của vua anh và chuyện Bắc tiến của ông không hẳn chỉ vì lời khuyên của Nguyễn Hữu Chỉnh. Đây mới chính là nguyên nhân dẫn tới mâu thuẫn của anh em Tây Sơn[21].

Sử cũ ghi rất vắn tắt và không thật rõ ràng về sự kiện này, chỉ biết khoảng đầu năm 1787, Nguyễn Huệ mang 60.000 quân nam tiến vây thành Quy Nhơn. Theo thư của một số linh mục Pháp, để có đủ 6 vạn quân vây bọc thành Quy Nhơn, Nguyễn Huệ bắt thêm toàn bộ số đinh Thuận - Quảng vào lính, khiến nhiều vùng không còn đàn ông nữa. Nguyễn Nhạc bị vây ngặt bèn gọi Đặng Văn Trấn, đang trấn thủ Gia Định, ra cứu. Trấn vâng lệnh mang quân ra, nhưng đến Phú Yên vừa bị Nguyễn Huệ bắt sống. Nguyễn Huệ nã pháo tới tấp vào thành Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc bị vây bức quá phải lên thành khóc xin em đừng đánh thành nữa. Nguyễn Huệ bằng lòng giảng hòa với anh.

Tuy nhiên, theo một giáo sĩ phương Tây tại Việt Nam lúc đó, anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ tuy mâu thuẫn nhưng cho đến khi Nguyễn Huệ bắt được Đặng Văn Trấn, quân đội hai bên vẫn chưa thực sự đánh nhau thì Nguyễn Lữ đứng ra điều đình và hai bên vì tình cảm trong nhà vừa đồng ý giảng hoà[22].

Nguyễn Nhạc phong vương cho hai em, mỗi người chia nhau giữ một khu vực từ tháng 4 năm 1787:Nguyễn Nhạc xưng là Trung ương Hoàng đế, đóng đô ở Quy Nhơn.
Phong Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương, cai quản vùng đất Gia Định.
Phong Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương, cai quản vùng đất từ đèo Hải Vân trở ra Bắc.
Nguyễn Huệ giảng hoà và nhận chức Bắc Bình vương của vua anh phong. Hai anh em lấy Bản Tân làm ranh giới, từ Thăng Hoa, Điện Bàn ra Bắc thuộc Nguyễn Huệ, từ Quảng Ngãi trở vào thuộc vua Thái Đức. Như vậy vua Thái Đức vừa thoả mãn yêu cầu được cai quản Quảng Nam của vua em. Còn Nguyễn Lữ trấn thủ Gia Định, có thái bảo Phạm Văn Tham giúp sức.

Hậu quả

Việc bất hòa giữa anh em Tây Sơn để lại hậu quả nghiêm trọng và lập tức bị kẻ địch từ hai phía tận dụng.

Ở phía nam, sau trận Rạch Gầm - Xoài Mút, Nguyễn Huệ vừa chủ động giao hảo với vua Xiêm để cởi bỏ thù hằn, do đó vua Xiêm không có ý giúp Nguyễn Ánh trở về lần nữa[23]. Tuy nhiên sau 3 năm lưu vong ở Xiêm, Nguyễn Ánh nhận ra thời cơ này để về nước và vừa tập hợp lực lượng, trở về vào tháng 8 năm 1787.

Nguyễn Lữ hèn yếu nghe tin Nguyễn Ánh trở về vội vã tránh đi nơi khác để Gia Định cho Phạm Văn Tham giữ. Sau đó thế quân Nguyễn Ánh ngày càng mạnh khiến Nguyễn Lữ sợ hãi mang quân bản bộ rút chạy về Quy Nhơn. Quân Tây Sơn vừa mỏng lại càng mỏng. Mặc dù sau đó Phạm Văn Tham vừa nỗ lực chống trả nhưng vì không được viện binh trợ lực nên tháng 8 năm 1788 Nguyễn Ánh chiếm lại được Gia Định. Phạm Văn Tham rút chạy ra ngoài vẫn cố đơn độc chiến đấu để chờ viện binh nhưng lúc đó Nguyễn Nhạc chỉ lo phòng bị vua em Bắc Bình vương ở phía bắc mà không đoái hoài đến chuyện cứu phía nam nữa. Thế cùng sức kiệt, đầu năm 1789 Phạm Văn Tham bị Nguyễn Ánh vây chặt, lại bịt đường ra biển về Quy Nhơn nên buộc phải đầu hàng. Tây Sơn lại mất Nam Bộ.

Sau một thời (gian) gian để mất Gia Định trở về Quy Nhơn, Đông Định vương Nguyễn Lữ lâm bệnh qua đời. (Xem thêm bài về Nguyễn Lữ)

Ở Bắc Hà, Nguyễn Hữu Chỉnh nhân lúc Tây Sơn lục đục bèn có ý chống lại Tây Sơn. Nguyễn Huệ phái Vũ Văn Nhậm, con rể của Nguyễn Nhạc, ra tiêu diệt Nguyễn Hữu Chỉnh. Tuy nhiên, đến lượt Vũ Văn Nhậm chuyên quyền, có ý chống Nguyễn Huệ. Tháng 4 năm 1788, Lê Chiêu Thống vừa bỏ kinh đô lưu vong. Nguyễn Huệ phải đem quân ra Bắc lần thứ hai, giết Vũ Văn Nhậm. Ông tổ chức lại hệ thống cai trị ở Bắc Hà, đưa các danh sĩ có tên tuổi như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích ra đảm đương công việc.

Sau khi vừa lập Sùng nhượng công Lê Duy Cận làm Giám quốc, Nguyễn Huệ lại rút quân về Phú Xuân.

Đại phá quân Mãn Thanh

Xem thêm: Nguyễn Huệ, Chiến thắng Kỷ Dậu Quân Thanh tiến vào Thăng Long

Cuối năm 1788, vua Thanh đương thời (gian) là Càn Long sai Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị chỉ huy hơn 29 vạn quân, huy động từ Lưỡng Quảng, Vân Nam và Quý Châu[24] hộ tống Lê Chiêu Thống về Việt Nam với danh nghĩa phù Lê, vào chiếm đóng Thăng Long.

Càn Long còn đặc cử Phúc An Khang chuyên trách hậu cần. Theo sách Thánh vũ ký, phần "Càn Long chinh phủ An Nam ký" của Ngụy Nguyên đời Thanh, Phúc Khang An vừa thiết lập trên 70 đồn quân lương to lớn và kiên cố từ hai đường Quảng Tây và Vân Nam tới Thăng Long. Riêng chặng đường từ ải Nam Quan tới Thăng Long, Khang An thiết lập 18 kho quân lương trong khi Tôn Sĩ Nghị hành quân.

Quân Tây Sơn do Đại Tư mã Ngô Văn Sở chỉ huy, theo mưu kế của Ngô Thì Nhậm, chủ động rút quân về đóng ở Tam Điệp - Biện Sơn (Ninh Bình) cố thủ chờ lệnh.

Quang Trung đại phá quân Thanh

Nghe tin báo, ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (22 tháng 12 năm 1788), Bắc Bình vương Nguyễn Huệ xuất quân tiến ra Bắc Hà. Với lý do vua Lê vừa bỏ nước và rước giặc về, để có danh nghĩa chính thống, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung.

Ngày 29 tháng 11 năm Mậu Thân (26 tháng 12 năm 1788), đại quân của hoàng đế Quang Trung tới Nghệ An, dừng quân tại đó hơn 10 ngày để tuyển quân và củng cố lực lượng, nâng quân số lên 10 vạn, tổ chức thành 5 đạo quân: tiền, hậu, tả, hữu và trung quân. Ngoài ra còn có một đội tượng binh với hơn 100 voi chiến[25]. Vua Quang Trung còn tổ chức lễ duyệt binh ngay tại Nghệ An để khích lệ ý chí quyết chiến, quyết thắng của tướng sĩ đối với quân xâm lược Mãn Thanh. Ngay sau lễ duyệt binh, Quang Trung tiến quân ra Bắc Hà.

Ngày 20 tháng Chạp năm Mậu Thân (15 tháng 1 năm 1789), đại quân của Quang Trung vừa ra đến Tam Điệp, Ninh Bình. Sau khi xem xét tình hình, Quang Trung nói với toàn quân rằng chỉ trong 10 ngày sẽ quét sạch quân Thanh.

Sớm hơn cả dự kiến, chỉ trong vòng 6 ngày kể từ đêm 30 Tết âm lịch, quân Tây Sơn vừa đánh tan 29 vạn quân Thanh[26] bằng hàng loạt trận đánh tập kích, mai phục, thần tốc và chớp nhoáng mà trận Ngọc Hồi - Đống Đa là tiêu biểu. Trưa mồng 5 Tết Kỷ Dậu - 1789, quân Tây Sơn tiến vào Thăng Long.

Tôn Sĩ Nghị dẫn tàn quân bỏ chạy, trên đường chạy liên tiếp bị quân Tây Sơn mai phục chặn đánh. Cuối cùng, Tôn Sĩ Nghị và Lê Chiêu Thống chạy thoát về Trung Quốc.
 
(Triều đại Tây Sơn và những chính sách cải cách của Quang Trung

Biên niên các sự kiện thời (gian) Tây Sơn:

- 1771: Anh em Tây Sơn nổi dậy

- 1776: Nguyễn Nhạc xưng là Tây Sơn vương

- 1777: Nguyễn Huệ tiêu diệt chúa Nguyễn tại Gia Định

- 1778: Nguyễn Nhạc xưng đế, đặt tên hiệu là Thái Đức

- 1780: Nguyễn Ánh xưng vương tại Gia Định

- 1782: Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn đuổi, chạy ra Phú Quốc.

- 1783: Nguyễn Ánh lánh nạn tại Côn Sơn.

- 1785: Nguyễn Huệ đánh bại quân Xiêm tại Rạch Gầm - Xoài Mút. Nguyễn Ánh chạy sang Xiêm.

- 1786: Nguyễn Huệ lật đổ chúa Trịnh

- 1787: Nguyễn Ánh trở về lại Long Xuyên

- 1788: Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế

- 1789: Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh, Nguyễn Ánh lấy thành Gia Định

- 1792: Vua Quang Trung mất - 1793: Nguyễn Nhạc mất

- 1799: Nguyễn Ánh chiếm thành Qui Nhơn

- 1801: Nguyễn Ánh lấy được Phú Xuân

1. Sự thiết lập Vương triều Tây Sơn

Tháng 3-1776, Nguyễn Nhạc tự xưng Tây Sơn Vương, đúc ấn vàng, xây lại thành Đồ Bàn, phong cho Nguyễn Huệ làm Phụ chính, Nguyễn Lữ làm Thiếu phó. Đầu năm 1778, Nguyễn Nhạc tự xưng Hoàng đế, lấy niên hiệu là Thái Đức, đổi thành Đồ Bàn làm thành Hoàng đế, phong cho Nguyễn Huệ làm Long nhượng tướng quân, Nguyễn Lữ làm Tiết chế. Triều đại Tây Sơn chính thức được thành lập, nhưng thực chất vẫn còn là bộ tham mưu tối cao của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Năm 1786, sau khi tiến quân ra Bắc, lật đổ chính quyền họ Trịnh, Nguyễn Huệ rút quân về Nam, Nguyễn Nhạc tự xưng là Trung ương Hoàng đế, quản lý khu đất ở giữa, chạy dài từ Quảng Nam vào đến cực nam Trung Bộ ngày nay, phong cho Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương, cai quản vùng đất từ đèo Hải Vân trở ra Nghệ An, phong cho Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương, trông coi vùng đất Gia Định. Hoạt động của Nguyễn Lữ ở Gia Định chỉ thu hẹp trong phạm vi là một viên tướng đồn trú ở trong thành và chia quân đóng giữ. một số đồn luỹ, không đề ra và thực hiện được những chính sách kinh tế, chính trị, xã hội nào tích cực của một chính quyền phong kiến. Thời gian tồn tại của Đông Định Vương chỉ trong vòng hơn một năm (1786-1787). Năm 1787, Nguyễn ánh từ Xiêm đem quân về đánh Long Xuyên. Nguyễn Lữ sợ hãi bỏ Gia Định chạy về Biên Hoà, sau lại chạy về Quy Nhơn và bị bệnh chết. Vùng Gia Định từ tháng 9-1788 lại thuộc về Nguyễn Ánh.

Trung ương Hoàng đế Nguyễn Nhạc từ sau năm 1786 thỏa mãn với thắng lợi, không còn ý chí quật khởi, ngồi hưởng lạc "chỉ mong giữ lấy một phủ Quy Nhơn, tự giáng mình làm Tây chúa", "ham nhàn vui, cầu yên tạm bợ, không lo đến hậu hoạ". Từ năm 1790 đến 1793, Nguyễn Ánh liên tiếp tấn công ra Bình Thuận, Bình Khang, Diên Khánh và vây thành Quy Nhơn (1793). Nguyễn Nhạc bất lực phải nhờ quân cứu viện của chính quyền Quang Toàn (Cảnh Thịnh). Các tướng sĩ của Quang Toàn giải vây Quy Nhơn, đánh bại quân Nguyễn Ánh rồi chiếm luôn cả thành trì. Nguyễn Nhạc uất lên mà chết, chính quyền của Nguyễn Nhạc đến đây kết thúc.

2. Triều đại Quang Trung

Ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (1788), trước khi đem quân ra Bắc tiêu diệt quân Thanh xâm lược, Nguyễn Huệ xưng đế đặt niên hiệu là Quang Trung. Phạm vi quản lý của triều đại Quang Trung trong những năm 1789-1792 bao gồm toàn bộ Bắc Hà vào đến đèo Hải Vân. Trên phạm vi đó, triều đại này vừa ban hành nhiều chính sách, biện pháp cải cách tiến bộ.

- Về kinh tế.

Quang Trung ban "chiếu khuyến nông", lệnh cho dân phiêu tán trở về quê khôi phục ruộng đồng bỏ hoang. Những xã nào chứa chấp kẻ trốn tránh đều bị trừng phạt. Sau một thời (gian) hạn mà ruộng công còn bỏ hoang thì phải nộp thuế gấp đôi, ruộng tư thì bị sung công... Do đó, chỉ trong vòng 3 năm sau, nông nghề được phục hồi. Năm 1791 "mùa màng trở lại phong đăng, năm phần mười trong nước khôi phục được cảnh thái bình.

Đối với công thương nghiệp, Quang Trung khuyến khích đẩy mạnh sản xuất thủ công nghiệp, mở rộng lớn ngoại thương trên cơ sở phục hồi và phát triển nông nghiệp. Xuất phát từ nhận thức đúng đắn đó, ngay từ những ngày đầu của chính quyền mới, Quang Trung chủ trương phát triển tất cả ngành sản xuất nhằm xây dựng một nền kinh tế phồn vinh, độc lập
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top