nhnoyb

New Member
Kiều ở lầu Ngưng Bích



Bài làm



Nếu ai đã từng đọc Truyện Kiều của Nguyễn Du thì chắc chắn cũng dẽ cảm thông cho cuộc đời của Vương Thúy Kiều . Mối tình đầu vừa chớm nở thì gia đình nàng lại gặp biến cố. Trong cơn hoạn nạn đó nàng đã phải bán mình chuộc cha, không những bị bán vào lầu xanh mà nàng còn bị đánh đập tàn bạo, dã man. và Kiều đã phải ra ở lầu Ngưng Bích trong cơn đau đớn, tủi nhục. Có thể nói Nguyễn Du đặt Kiều trong một hoàn cảnh vô cùng éo le, bức xúc . Và để miêu tả tâm trạng của Kiều, Nguyễn Du đã miêu tả cảnh vật ở lầu Ngưng Bích để làm nổi bật những đau đớn trong cuộc đời đầy sóng gió của Kiều qua đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích được xem là bức trạnh vịnh cảnh ngụ tình xúc động nhất trong truyện Kiều.



Thiên nhiên ở lầu Ngưng Bích thật đẹp đẽ, khoáng đạt:



Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

Bốn bề bát ngát xa trông,

Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.



Với vẻ non xa tấm trăng gần, bốn bề bát ngát , cát vàng , bụi hồng…Những đường nét, màu sắc của thiên nhiên nơi đây đan xen tạo nên một bức tranh thủy mặc, tĩnh lặng, đượm buồn.



Trước thiên nhiên tươi đẹp ấy. Kiều ở trong một tâm thế khóa xuân cô quạnh, lẻ loi đơn chiếc:



Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tỉnh nửa cảnh như chia tấm lòng.



Chính cái tâm thế ấy của Kiều đã tạo ra sự đối lập trớ trêu giữa thiên nhiên lớn lao với con người bé nhỏ. Nếu bên ngoài mênh mông, rộng lớn bao nhiêu thì bên trong lại càng chật hẹp, tù túng, giam cầm bấy nhiêu. Nỗi buồn tê tái, cô đơn, chán ngán đã chế ngự và xâm chiếm toàn bộ tâm hồn Kiều.



Trong khung cảnh tĩnh lặng ấy, nàng nhớ đến người yêu, nhớ đến cha mẹ.



Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,

Tin sương luống những rày trông mai chờ

…….

Xót người tựa cửa hôm mai,

Quạt nồng ấm lạnh những ai đó giờ?

Sân Lai cách mấy nắng mưa,

Có khi gốc tử đã vừa người ôm.



Nguyễn Du đã đảo trật tự nỗi nhớ để Kiều nhớ đến người yêu trước cha mẹ sau là phù hợp với tiếng lòng nàng Kiều. Trái tim yêu thương , thổn thức rất đời và rất người của tuổi trẻ. Đây chính là màn độc thoại, da diết, đằm thắm yêu thương và trân trọng đời Kiều.



Cuối cùng nàng nghĩ về bản thân mình với tám câu thơ và bốn cặp câu giống nhau:



Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn gió mới xa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.



Điệp từ buồn trông lặp lại trong bốn cặp câu và ở vị trí đầu câu như dồn lại, như ứ đầy, chồng chất những nỗi buồn điệp điệp, sóng dồn trong tâm trạng của cô con gái liễu yếu đào tơ, nỗi buồn xoáy sâu vào tâm can xé nát vụn vỡ từng luồng suy nghĩ dẫu bé nhỏ bình dị của nàng.



Từ trên lầu cao, Kiều phóng tầm mắt ra rất xa ngoài cửa biển, nhìn thấy những cánh buồm thấp thoáng này chạnh nghĩ đến cuộc đời và một hành trình lưu lạc mờ mịt xa xăm của mình.



Kiều vội đảo tầm mắt lên một hướng cao hơn hy vọng sẽ kiếm tìm được một niềm vui bé bỏng nhưng lại đập ngay vào tầm nhìn của nàng:



Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn gió mới xa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu?



Cánh hoa trôi man mác , vô định như thân phận bèo bọt của nàng trên dòng đời đen bạc chưa biết đi đâu về đâu. Cánh hoa ấy tơi tả trước thời gian sóng gió bão bùng như ẩn dụ cuộc đời Thúy Kiều cũng trôi nổi trước lưới trời đang vây bủa, rình rập. Nàng nhìn ra xa hơn tận chân mây mặt đất nhưng nàng chỉ nhìn thấy những nội cỏ dầu dầu vàng úa, nhạt nhòa, sâu thẳm, mờ mịt, xa xăm. Vẫn không thể cắt nghĩa được nỗi buồn của mình, nàng chuyển đổi cảm giác từ nhìn nhận sang nghe ngóng để hy vọng gạt đi được những ưu tư phiền muộn của cuộc đời, nhưng tất cả đều vô vọng.



Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.



Nàng thu tầm mắt nhìn của mình về ngay vị trí đang ngồi dưới chân lầu Ngưng Bích thì một âm thanh hãi hùng va đập vào ngay tâm trạng của nàng. Nguyễn Du đã dùng ngòi bút thần tình để mô tả một âm thanh tiếng sóng kêu với bút pháp nhân hóa đặt đúng vị trí không gian thời gian, đúng cả tâm trạng của nàng Kiều. Đây là tiếng sóng đời, sóng lòng đang gào thét giận dữ bủa vây rình rập và muốn nuốt chửng đời Kiều.



Mỗi câu thơ, mỗi hình ảnh ngôn ngữ miêu tả thiên nhiên thật đặc sắc tất cả ngoại cảnh ấy đều nhuốm màu tâm trạng của nàng Kiều tan nát rối bời, đau khổ. Mỗi lần nàng vươn lên kiếm tìm một niềm vui, một tia hy vọng thì mỗi lần thiên nhiên cay nghiệt vùi dập, hắt hủi nàng xuống đáy bể trầm vơi và Nguyễn Du đã phải hạ một câu thở đúng với tâm trạng nàng Kiều:



Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.



Tám câu thơ với nhiều bút pháp nghệ thuật đan xen và dường như bút pháp nào cũng đạt đến tuyệt đỉnh. Bên cạnh các biện pháp tu từ quen thuộc như điệp từ ngữ, cấu trúc câu, sử dụng các từ láy gợi âm thanh, màu sắc và bút pháp nhân hóa điển hình. Tám câu thơ còn được xem như một bộ tứ bình miêu tả nội tâm nhưng vẫn trữ tình nhìn từ ngoại cảnh.Đặc biệt đây còn được xem là màn độc thoại điển hình nhất trong những trang Kiều, do đó người ta gọi Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh vịnh cảnh ngụ tình đặc sắc , tâm tình xúc động.



Ai đã một lần đọc Kiều, ngâm Kiều, vịnh Kiều chắc chắn phải dừng lại lâu hơn ở đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích. Và đằng sau những câu thơ ấy là cả một trái tim của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Với tấm lòng cô đơn, chia sẻ, nâng đỡ, động viên Kiều giữa đoạn trường tân thanh.



Theo 100 bài văn hay lớp 9*
 
Phân tích đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích để cho thấy nỗi lòng cô đơn buồn nhớ và tâm trạng đau khổ sợ hãi của nàng Kiều khi bị Tú Bà nhốt ở lầu Ngưng Bích.



Bài làm



Đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích dài hai mươi câu trích trong Truyện Kiều là những “Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình” (Tố Hữu). Bao biến cố khủng khiếp đã diễn ra : tai bay vạ gió, cha và em bị tù tội, gia sản bị bọn sai nha “đầu trâu mặt ngựa” cướp “sạch sành sanh…”, phải bán mình chuộc cha, trao duyên cho em, Kiều rơi vào tay Mã Giám Sinh – Tú Bà. Sauk hi ‘thất thân’ bởi Mã Giám Sinh , bị mụ Tú Bà làm nhục, Kiều tự vẫn nhưng đã được cứu sống. Tú Bà dỗ dành Kiều:



Người còn thì của hãy còn,

Tìm nơi xứng đáng là con cái nhà…



Kiều được Tú bà đưa ra lầu Ngưng Bích với lời hứa “con hãy thong dong”, nhưng thật ra là nàng bị giam lỏng. Lầu Ngưng Bích là một điểm dừng chân của Thúy Kiều trên con đường lưu lạc đầy máu và nước mắt, cay đắng và tủi nhục suốt mười lăm năm trời.

Đoạn thơ không chỉ biểu lộ tình cảm xót thương của Nguyễn Du đối với kiếp người bạc mệnh mà còn thể hiện một bút pháp nghệ thuật đặc sắc về tự sự, về tả cảnh ngụ tình, về ngôn ngữ độc thoại để biểu đạt nỗi lòng và tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều.

1. Sáu câu đầu của đoạn thơ là một không gian nghệ thuật và một tâm trạng nghệ thuật đồng hiện. Có ‘non xa’ và ‘tấm trăng gần’ ; có ‘cát vàng cồn nọ’ và ‘bụi hồng dặm kia’. Giữa một thiên nhiên vắng lặng và mênh mông, không một bóng người, Kiều chỉ còn biết ‘bốn bề bát ngát xa trông’. Một cảm giác cô đơn, buồn tủi và bẽ bàng cho thân phận mình, duyên số mình. Chỉ có một mình một bóng đối diện với ‘mây sớm đèn khuya’, nỗi lòng người con gái lưu lạc đau khổ, tủi nhục và ngao ngán vô cùng:



Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.



Bốn chữ ‘như chia tấm lòng’ diễn tả một nỗi niềm, một nỗi lòng tan nát, đau thương. Vì thế, tuy sống giữa một khung cảnh đẹp êm đềm, có non xa và trăng gần – nhưng nàng vẫn thấy cô đơn, bẽ bàng, bởi lẽ ‘Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Kiều sao không khỏi cô đơn, bẽ bàng trong một cảnh ngộ đầy bi kịch:



Chung quanh những nước non người,

Đau lòng lưu lạc nên vài bốn câu.



2. Tám câu thơ tiếp theo nói lên niềm tưởng nhớ người yêu và nỗi xót thương, cha mẹ của Thúy Kiều khi sống một mình trong lầu Ngưng Bích. Với Kim Trọng thì Kiều ‘Tưởng người…”. Với mẹ cha thì nàng đã ‘xót người…’, mỗi đối tượng Kiều có mỗi nỗi thương nhớ riêng.



Trên đường theo Mã Giám Sinh về Lâm Truy, Kiều thương Kim Trọng cô đơn, đau khổ “Một trời thu để riêng ai một người”. Đối với cha mẹ, Kiều khắc khoải “nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn”. Lần này, Kiều tưởng nhớ chàng Kim, nhớ lời thề dưới trăng đêm tình tự “dưới nguyệt chén đồng”, thương người yêu đau khổ “rày trông mai chờ” và “bơ vơ” cô đơn, sầu tủi. Đến bao giờ mới nguôi, mới ‘phai’ được nỗi thương nhớ ấy?. Những từ ngữ, hình ảnh chỉ không gian và thời gian cách biệt như : “dưới nguyệt chén đồng”, “tin sương”, ‘rày trông mai chờ’,’bên trời góc bể’,’tấm son gột rửa…’ – đã diễn tả và bộc lộ một cách sâu sắc cảm động tình cảm thương nhớ người yêu trong mối tình đầu, nay vì cảnh ngộ mà chia lìa đau đớn:



Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,

Tin sương luống những rày trông mai chờ.

Bên trời góc bể bơ vơ,

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.



Các động từ - vị ngữ : “tưởng”, “trông”, “chờ”, “bơ vơ”, “gột rửa”, “phai” đã liên kết thành một hệ thống ngôn ngữ độc thoại biểu đạt nội tâm nhân vật trữ tình. Kiều nhớ người yêu khôn nguôi, xót xa cho một mối tình đã nặng lời thề son sắt mà bị tan vỡ!

Nhớ chàng Kim rồi Kiều đau xót thương cha mẹ. Các từ ngữ chỉ thời gian xa cách : “hôm mai”, “cách mấy nắng mưa”, các thi liệu điển cố văn học Trung Hoa như : “sân Lai”, “gốc tử”, và thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh”, đặc biệt hình ảnh mẹ già “tựa cửa hôm mai” đợi chờ, trông ngóng đứa con lưu lạc quê người đã cực tả nỗi nhớ thương cha mẹ , nỗi đau buồn của đứa con gái đầu lòng không thể, không được chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ, khi song thân đã già yếu, khi “gốc tử đã vừa người ôm”.



Nguyễn Du đã sử dụng ngôn ngữ độc thoại kết hợp hài hòa giữa phong cách cổ điển và phong cách dân tộc, tạo nên những vần thơ biểu cảm thể hiện một tâm trạng bi kịch, một cảnh ngộ đầy bi kịch của Thúy Kiều. Trong chia lìa “ trâm gãy thương nhớ” nàng vẫn dành cho “người tình chung” bao tình thương nhớ “muôn vàn ái ân”. Là một đứa con chí hiếu, giàu đức hy sinh, khi cha mẹ già yếu không được sớm hôm phụng dưỡng. Kiều càng nhớ thương càng xót xa. Giọng thơ rưng rưng lệ, nỗi đau của nàng Kiều như thấm vào cảnh vật, thời gian và lòng người bấy lâu nay:



Xót người tựa cửa hôm mai,

Quạt nồng ấm lạnh những ai đó giờ?

Sân Lai cách mấy nắng mưa,

Có khi gốc tử đã vừa người ôm.



3. Tám câu cuối đoạn, điệp ngữ “buồn trông” xuất hiện bốn lần, đứng ở vị trí đầu câu sáu của mỗi cặp lục bát. Hai chữ “buồn trông” là cảm xúc chủ đạo của tâm trạng “tê tái” đau thương; thương mình và thương người thân, thương cho thân phận và duyên số…. “Buồn trông” thì càng buồn trông, càng trông lại càng buồn. Đây là đoạn thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất trong “truyện Kiều”. Cứ mỗi cặp lục bát là một nét tâm trạng “buồn trông”. Ngoại cảnh và tâm cảnh, khung cảnh thiên nhiên và diễn biến tâm trạng của nhân vật được diễn tả qua một hệ thống hình tượng và ngôn ngữ mang tính ước lệ, mở ra một trường liên tưởng bi thương:



Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.



Cửa bể mênh mông lúc ngày tàn chiều hôm càng làm tăng nỗi buồn cô đơn của kiếp người lưu lạc. “Thuyền ai” lúc ẩn lúc hiện “thấp thoáng cánh buồm xa xa” đầy ám ảnh. “Buồn trông” con thuyền “ai” xa lạ, cánh buồm xa xa “thấp thoáng”, Kiều càng nghĩ đến thân phận bơ vơ của mình nơi quê người đất khách.



Rồi nàng lại “buồn trông” về phía “ngọn nước mới sa”, dõi theo những cánh hoa trôi dạt và tự hỏi “về đâu”, đến phương trời vô định nào. Cánh hoa trôi man mác ấy tượng trưng cho số phận chìm nổi trên dòng đời không biết về đâu, đến đâu – Kiều nhìn hoa trôi trên ngọn nước mà cảm thương cho số phận của mình:



Buồn trông ngọn nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu?.



Sau hai câu hỏi tu từ về ‘thuyền ai”, về hoa trôi “biết là về đâu?”, Kiều “buồn trông” về bốn phía ‘chân mây mặt đất’ về nội cỏ, nàng chỉ nhìn thấy trên cái nền xanh xanh mịt mờ bao la là màu sắc tàn úa, vàng héo “dầu dầu” của nội cỏ. Màu sắc tê tái thê lương ấy đã phản chiếu nỗi đau tê tái của người con gái lưu lạc:



Buồn trông nội cỏ dầu dầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.



“Nội cỏ dầu dầu” tàn úa hiện lên giữa màu “xanh xanh” nhạt nhòa của ‘chân mây mặt đất’ chính là tâm trạng lo âu của Kiều khi nghĩ đến tương lai mờ mịt, héo tàn của mình. Sắc cỏ “dầu dầu” ấy, nàng đã một lần nhìn thấy mới ngày nào trên nấm mồ Đạm Tiên:



Sè sè nấm đất bên đường,

Dầu dầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.



Nhìn xa rồi nhìn gần, vừa “buồn trông” vừa lắng tai nghe . Nghe tiếng gió, gió gào, “gió cuốn” trên mặt duềnh. Nghe tiếng “ầm ầm” của sóng, không phải sóng reo mà “sóng kêu”. Gió và sóng đang bủa vây “xung quanh ghế ngồi”. Một tâm trạng cô đơn lẻ loi đang trải qua những giờ phút hãi hùng, ghê sợ, lo âu. Phải chăng âm thanh dữ dội ấy của gió và sóng là biểu tượng cho những tai họa khủng khiếp đang bủa vây, sắp giáng xuống số phận người con gái ‘nhỏ bé’ đáng thương?. Kiều ‘buồn trông’ mà lo âu sợ hãi:



Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.



Bức tranh ‘nước non người’ , cận cảnh là lầu Ngưng Bích, viễn cảnh là con thuyền và cánh buồm trên cửa bể chiều hôm, là ngọn nước và hoa trôi, là nội cỏ dầu dầu giữa màu xanh xanh chân mây mặt đất, là gió cuốn và tiếng sóng ầm ầm kêu nơi mặt duềnh…mang ý nghĩa tượng trưng và giàu giá trị thẩm mĩ. Màu sắc ấy ,âm thanh ấy của thiên nhiên vừa bao la mờ mịt, vừa dữ dội , tất cả như đang bủa vây người con gái lưu lạc đau thương trong nỗi buồn đau hãi hùng , lẻ loi.



Những chặng đường đầy cạm bẫy, nhiều máu và nước mắt có “ma đưa lối, quỷ dẫn đường”,…đối với Kiều đang ở phía trước. Đoạn thơ “Kiều ở lầu Ngưng Bích” như chứa đầy ước lệ của người con gái lưu lạc, đau khổ vì cô đơn lẻ loi, buồn thương chua xót vì mối tình đầu tan vỡ ,xót xa vì thương nhớ cha mẹ, lo sợ thân phận, số phận mình ; Lệ của nhà thơ, một trái tim nhân đạo bao la đồng cảm, xót thương cho người thiếu nữ tài sắc, hiếu thảo mà bạc mệnh.



Các từ láy : “bát ngát”, bẽ bàng, bơ vơ, thấp thoáng, xa xa, man mác, dầu dầu, xanh xanh, ầm ầm, kết hợp với điệp ngữ “buồn trông” đã tạo nên sắc điệu trữ tình thẩm mĩ và tô đậm cảm hứng nhân đạo. Đó là giá trị văn chương đích thực trong đoạn thơ ‘Kiều ở lầu Ngưng Bích”.



Theo 100 bài văn hay lớp 9*
 
Em hãy phân tích đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” trích trong tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.



Nguyễn Du là một bậc thầy về tả cảnh. Nhiều câu thơ tả cảnh của ông có thể coi như là chuẩn mực cho vẻ đẹp của thơ ca cổ điển:



- Dưới trăng, quyên đã gọi hè

Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông.

- Long lanh đáy nước in trời

Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng...



Với những câu thơ này, Nguyễn Du đã làm đẹp, làm giàu có thêm rất nhiều cho ngôn ngữ dân tộc. Từng có ý kiến cho rằng, so với tiếng Hán vốn có tính hàm súc, tính biểu hiện rất cao thì tiếng Việt trở nên quá nôm na, ít khả năng biểu hiện. Tuy nhiên, Nguyễn Du đã chứng minh rằng ngôn ngữ tiếng Việt có một khả năng biểu hiện vô giới hạn.



Nhưng Nguyễn Du không chỉ giỏi về tả cảnh mà còn giỏi về tả tình cảm, tả tâm trạng. Trong quan niệm của ông, hai yếu tố tình và cảnh không tách rời nhau mà luôn đi liền với nhau, bổ sung cho nhau. Ví dụ, trong hai câu thơ tả cảnh chị em Thuý Kiều đi chơi xuân:



Nao nao dòng nước uốn quanh

Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.



Cảnh rất đẹp và thanh, ứng với tâm hồn hai chị em đang nhẹ nhàng thơi thới. Ngược lại, khi người buồn thì cảnh cũng buồn theo. Trong một đoạn thơ khác thuộc Truyện Kiều, ông viết:



Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.



Hai câu thơ này thể hiện rất rõ quan niệm của Nguyễn Du về mối quan hệ giữa tâm trạng của con người và cảnh vật. Cảnh vật đẹp hay không đẹp, nhẹ nhàng, thanh thoát hay nặng nề, u ám phụ thuộc rất nhiều vào tâm trạng của con người trước cảnh đó.



Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" là sự kết hợp, giao hoà của hai yếu tố cảnh vật và tâm trạng. Về cảnh vật có lầu cao, có non xanh nước biếc, sơn thuỷ hữu tình. Nếu Thuý Kiều ở vào một hoàn cảnh khác, trong tâm trạng khác thì hẳn cảnh đó sẽ rất đẹp. Tuy nhiên, tâm trạng Kiều lại đang rất u ám, sầu não: bị Tú Bà giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, Kiều da diết nhớ cha mẹ, nhớ người yêu, đồng thời lại rất đau xót cho thân phận mình. Cảnh vật, do đó, nhuốm màu tâm trạng:



Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân

Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung.



Kiều ngắm cảnh hay Kiều đối cảnh? Thật khó có thể nói là "ngắm" theo nghĩa thông thường của từ này. Bởi "ngắm" có nghĩa là chiêm ngưỡng, thưởng ngoạn. Kiều đang trong tâm trạng như thế sao có thể thưởng ngoạn cho được? Bởi vậy, dù có cả "vẻ non xa" lẫn "tấm trăng gần" nhưng cảnh vật ấy chẳng thể nào gợi lên một chút tươi vui hay ấm áp. Nhà thơ đã dùng hai chữ "ở chung" thật khéo. Kiều trông thấy tất cả những thứ đó nhưng với nàng, chúng chẳng khác gì nhau và càng không có gì đặc biệt. Hai yếu tố trái ngược (non xa, trăng gần) tưởng như phi lí nhưng thực ra đã diễn tả rất chính xác sự trống trải của cảnh vật qua con mắt của Kiều. Khung cảnh "bốn bề bát ngát" chỉ càng khiến cho lòng người thêm gợi nhớ:



Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.



Có thể hình dung rất rõ một không gian mênh mang đang trải rộng ra trước mắt Kiều. Một người bình thường đứng trước không gian ấy cũng khó ngăn được nỗi buồn. Với Kiều, không gian rộng rãi, trống trải ấy chỉ càng khiến nàng suy nghĩ về cuộc đời mình:



Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.



Bởi trong những câu thơ tả cảnh trên đã thấm đẫm cái "tình" (tâm trạng) của Kiều nên đến những câu thơ này, Nguyễn Du đã bắt vào mạch tả tâm trạng một cách hết sức tự nhiên. ý thơ chuyển đổi rất linh hoạt: tả cảnh gắn với không gian. Không gian cao rộng (non xa, trăng gần) càng khiến cho cảnh mênh mang, dàn trải. Tả tâm trạng lại gắn với thời gian. Thời gian dằng dặc (mây sớm, đèn khuya) càng cho thấy tâm trạng chán nản, buồn tủi của Kiều. "Nửa tình nửa cảnh" - trước mắt là tình hay là cảnh, dường như cũng không còn phân biệt được nữa.

Theo dòng tâm trạng của Kiều câu thơ bắt vào nỗi nhớ:



Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những rày trông mai chờ.

Bên trời góc bể bơ vơ

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.



Nhớ nhà, trước hết Kiều nhớ đến Kim Trọng, nhớ đến chén rượu thề nguyền dưới trăng. Đối với một người luôn đa sầu đa cảm, nặng tình nặng nghĩa như Thuý Kiều, cảm xúc ấy thật xa xót. Càng nhớ đến Kim Trọng thì Kiều lại càng đau đớn cho thân phận mình. Việc Kiều thương Kim Trọng đang chờ mong tin mình một cách vô vọng đã cho thấy một vẻ đẹp khác trong tâm hồn nàng: Kiều luôn nghĩ đến người khác trước khi nghĩ đến bản thân mình. Tấm lòng ấy thật cao đẹp và đáng quý biết bao!



Tiếp theo là Kiều nhớ đến cha mẹ. Có ý kiến cho rằng, Kiều đã nhớ đến người yêu trước rồi mới nhớ đến cha mẹ, phải chăng là nàng đã đặt chữ "tình" lên trên chữ "hiếu"? Thực ra, việc Nguyễn Du miêu tả nỗi nhớ của Kiều dành cho Kim Trọng trước rồi mới miều tả nỗi nhớ cha mẹ là hoàn toàn hợp lí. Kiều không hề đặt chữ "hiếu" sau chữ "tình". Khi gia đình gặp tai biến, trước câu hỏi "Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn?", Kiều đã dứt khoát lựa chọn chữ "hiếu" bằng hành động bán mình chuộc cha. Giờ đây, khi cha và em nàng đã được cứu, người mà nàng cảm giác mình có lỗi chính là Kim Trọng. Nhưng không vì thế mà nỗi nhớ cha mẹ kém phần day dứt:



Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?

Sân Lai cách mấy nắng mưa

Có khi gốc tử đã vừa người ôm.



Những thành ngữ, điển tích, điển cố (tựa cửa hôm mai, quạt nồng ấp lạnh, Sân Lai, gốc tử) liên tục được sử dụng đã thể hiện rất rõ tình cảm nhớ nhung sâu nặng cũng như những băn khoăn trăn trở của Thuý Kiều khi nghĩ đến cha mẹ, nghĩ đến bổn phận làm con của mình. Trong hoàn cảnh thực tế, những suy nghĩ, tâm trạng đó càng chứng tỏ nàng là một người con rất mực hiếu thảo.



Tám câu thơ cuối cũng nằm trong số những câu thơ tả cảnh hay nhất của Truyện Kiều. Chúng thể hiện rất rõ nét nghệ thuật "tả cảnh ngụ tình" của Nguyễn Du:



Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ dàu dàu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh...



Nếu tách riêng các yếu tố ngoại cảnh ra mà xét thì có thể thấy đó là một khung cảnh thật thơ mộng và lãng mạn: có cánh buồm thấp thoáng, có man mác hoa trôi, có nội cỏ chân mây mặt đất một màu... Thế nhưng khi đọc lên, những câu thơ này chỉ khiến cho lòng người thêm sầu muộn, ảo não. Nguyên nhân là bởi trước mỗi cảnh vật kia, sừng sững án ngữ cụm từ "buồn trông". Không phải là "xa trông" như người ta vẫn nói, cũng không phải là "ghé mắt trông" như Xuân Hương đã từng tinh nghịch mà điền trước đền thờ Sầm Nghi Đống, ở đây, nhân vật trữ tình chỉ có một tâm thế duy nhất: "buồn trông". Tâm trạng nàng đang ngổn ngang trăm mối: nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, cảm giác mình là người có lỗi,... và nhất là đang hết sức đau xót cho thân phận mình. Bởi vậy, cảnh vật ấy cần được cảm nhận theo con mắt của Thuý Kiều: cánh buồm thấp thoáng nổi trôi vô định, hoa trôi man mác càng gợi nỗi phân li, nội cỏ không mơn mởn xanh mà "dàu dàu" trong sắc màu tàn úa... Nổi bật lên trong cảnh vật đó là những âm thanh mê hoặc:



Buồn trông sóng cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi



Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng đã nhiều lần miêu tả âm thanh. Có thể nói lần nào ông cũng thành công. Có khi chỉ qua một vài từ, ông đã diễn tả rất chính xác cảnh huyên náo trong nhà Thuý Kiều khi bọn vô lại kéo đến nhà:



Trước thầy sau tớ xôn xao

Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi.



Nguyễn Du đặc biệt thành công khi ông tả tiếng đàn của Kiều. Tuỳ theo tâm trạng, mỗi lần tiếng đàn của Kiều cất lên là một lần người nghe phải chảy nước mắt khóc cho số phận oan nghiệt của nàng.



Trong đoạn thơ này, Nguyễn Du không tả tiếng đàn mà tả tiếng sóng. Trong khung cảnh bát ngát, mênh mang, tiếng sóng vỗ "ầm ầm" (lưu ý: nhà thơ đã đảo ngữ để cho ấn tượng đó càng rõ ràng hơn) quả là một thứ âm thanh hết sức bất thường. Dường như nó muốn phá vỡ khung cảnh nặng nề nhưng yên tĩnh, nó bắt Kiều ra khỏi dòng suy tư về gia đình, người thân mà trả nàng về với thực tại nghiệt ngã. Ngoài ra, dường như đó còn là những dự cảm về quãng đời đầy những khổ đau, tủi nhục ê chề mà Kiều sắp phải trải qua.



Sưu tầm
 
Em hãy phân tích đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" trong tác phẩm truyện kiều của "Nguyễn Du"



Hai mươi hai câu thơ trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích đã thể hiện rõ bức tranh tâm cảnh của Kiều.

Từ một thiếu nữ tài sắc sống trong cảnh "êm đềm trước rủ màn che". Kiều đã trở thành món hàng trong màn mua bán của Mã Giám Sinh và giờ nàng đang sống trong cô đơn, nhớ thương đau buồn, lo âu nơi lầu Ngưng Bích. Hai mươi hai câu thơ trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích đã thể hiện rõ bức tranh tâm cảnh của kiều.



Sống nơi lầu Ngưng Bích là kiểu sống trong sự cô đơn tuyệt đối:





"Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng."



Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, hai chữ "khóa xuân" đã nói lên điều đó. "Khóa xuân" ở đây không phải nói tới những cô gái còn cấm cung mà là sự mỉa mai, chua xót cho thân phận nàng kiều. Nàng trơ trọi giữa thời gian mênh mông, không gian hoang vắng trong hoàn cảnh tha hương, cô đơn, giờ lại bị đầy vào chốn lầu xanh ô nhục. Trong cảnh ngộ như thế. Kiều chỉ còn biết lắng nghe tiếng nói từ sâu thẳm lòng mình. Tâm trạng Kiều trải ra theo cái nhìn cảnh vật. Nhìn lên trên là vầng trăng đơn côi, nhìn xuống mặt đất thì bên là cồn cát nhấp nhô lượng sóng bên là bụi hồng cuốn xa hàng vạn dặm. Lầu Ngưng Bích là một chấm nhỏ giữa thiên nhiên trơ trọi, giữa mênh mang trời nước. Cái lầu cao ngất nghểu, trơ trọi ấy giam hãm một thân phận trơ trọi. Không một bóng người, không một sự chia sẻ, chỉ có một thiên nhiên câm lặng làm bạn. Kiều chỉ có một mình để tâm sự, để đối diện với chính mình. Trong cái không gian rợn ngợp và thời gian dài dặc, quẩn quanh "mây sớm đèn khuya" gợi vòng tuần hoàn khép kín của thời gian, tất cả như giam hãm con người, như khắc sâu thêm nỗi đơn côi khiến Kiều càng thấy "bẽ bàng" chán ngắn, buồn tủi. Sớm và khuya, ngày và đêm Kiểu thui thủi một mình nơi đất khách quê người, nàng chỉ còn biết làm bạn với mây và đêm. Trong nỗi cô đơn tuyệt đối ấy, lòng Kiều dồn tới lớp lớp những chua xót. Buồn vì cảnh hoang vu, rợn ngợp và buồn vì ái tình riêng khiến lòng như bị xé:



"Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng"



Nguyễn Du từ cảnh vật trước lầu Ngưng Bích đã nói lên những nỗi lòng của Thúy Kiều. Đó là sự cô đơn, vô vọng đến tuyệt đối và đó là những dư vị của bao tháng ngày gian khổ sưng tấy.



Tạm quên đi những chia xẻ trong lòng. Kiều nhớ về những người thân:



"Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những rày trông mai chờ".



Đối với những quy định phong kiến. Kiều nhớ về người yêu rồi nhớ đến cha mẹ. Trong lúc này, nỗi đau đớn tình người yêu nữa còn xa xiết. Kỷ niệm còn mới đây thôi. Hơn thế nữa Kiều lại bị Mã Giám Sinh mua chuộc, ssớm đó bị đưa vào lầu xanh nên nỗi đau lớn nhất của nàng lúc này là:



"Tấm son gột rửa bao giờ cho phai"



Chính bởi thế mà người đầu tiên nàng nghĩ tới là chàng Kim. Với cha mẹ nàng đã hy sinh bán mình nên phần nào đã đền đáp được ơn sinh thành. Còn với Kim Trọng, nàng là kẻ phụ tình, tối hẹn. Trong tâm cảnh như thế, để Kiều Nhớ chàng Kim trước là sự tinh tế của ngòi bút Nguyễn Du. Nhớ tới người yêu là nhớ tới đêm trăng thề nguyền. Vừa mới hôm nào, nàng cùng chàng uống chén rượu thề nguyền son sắc, một lòng cùng nhau một đời mà nay mối tình duyên đã chia đột ngột. Câu thơ như có nhịp thổn thức của trái tim rỉ máu. Kiểu đau đớn hình dung Kim Trọng vẫn ngày ngày hướng về nàng để chờ tin mà uổng công vô ích. Càng nhớ chàng Kim bao nhiêu thì Kiều lại thương cho thân mình bấy nhiêu. Thương mình bơ vơ bên trời góc bể, càng nuối tiếc mối tình đầu, càng hiểu rằng tấm son mà nàng dành cho chàng Kim chẳng bao giờ nguôi ngoai. Không chỉ vậy mà tấm son đã bị hoen ố của nàng đến khi nào mới rửa cho được. Trong nỗi nhớ còn có cả nỗi xót xã, ân hận, tủi hổ. Đặt trong hoàn cảnh cô đơn. Kiều đã tạm để nỗi lòng mình lắng xuống và nhớ tới Kim Trọng. Đó là sự vị tha và tấm lòng chung thủy của một con người.

Nếu khi nhớ tới Kim Trọng. Kiều "tưởng" thì khi nghĩ tới cha mẹ Kiều "xót":



"Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?

Sân lai cách mấy nắng mưa

Có khi gốc tử đã vừa người ôm".



Nàng thương cha mẹ từ bấy đến nay vẫn sớm chiều tựa cửa chờ tin đứa con lưu lạc. Nàng xót thương da diết và day dứt khôn nguôi vì không thể quạt nồng, ấp lạnh, phụng dưỡng song thân khi già yếu. Thành ngữ "quạt nồng ấp lạnh", điển cố "Sân Lai, gốc tử" đều nói lên tâm trạng nhớ thương, tấm lòng hiếu thảo của Kiều. Nàng tưởng tượng nơi quê nhà tất cả đã đổi thay. Cha mẹ thì mỗi người thêm một già yếu mà nàng thì chẳng thể ở bên chăm sóc. Giờ đây khoảng cách không gian giữa nàng và cha mẹ là cách mấy nắng mưa. Thiên nhiên không chỉ tàn phá cảnh vật mà còn tán phá cả con người. Lần nào khi nhớ tới cha mẹ. Kiều cũng nhớ ơn chín chữ cao sâu và luôn ân hận mình đã phụ công sinh thành nuôi dưỡng của cha mẹ. Nỗi nhớ của nàng được gửi vào chiều dài thời gian, vào chiều sâu không gian bởi vậy mà càng thêm da diết, sâu xa. Dù đau buồn bất hạnh nhưng trái tim Kiều đầy yêu thương, nhân hậu, vị tha. Nàng là người tình chung thủy, là người con rất mực hiếu thảo, là người có tấm lòng vị tha đáng trọng. Hai nỗi nhớ được biểu hiện khác nhau đó cũng là sự cảm thông lạ lùng của nhà thơ, tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du đối với con người.



Vẫn việc sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình quen thuộc, những nỗi buồn khác nhau với lí do buồn khác nhau, trong lòng Kiều đã buồn tác động lại khiến càng buồn hơn và nỗi buồn ngày một ghê gớm, mãnh liệt hơn.



"Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ dầu dầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ẩm âm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi."



Tám câu thơ vừa là bức tranh tâm cảnh mà cũng là thực cảnh. Cảnh được miêu tả theo kiểu tứ bình trong con mắt trông bốn bề và từ xa tới gần. Cảnh đầu tiên mà Kiều trông thấy là bể lúc chiều hôm:



"Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?"



Không gian mênh mông và thời gian khi chiều tà muôn thuở gợi buồn. Giữa khung cảnh ấy chỉ có một con thuyền vô định và hiện hữu với cánh buồm thấp thoáng xa xa như một ảo ảnh. Cảnh đã gợi trong lòng người tha thương nỗi buồn nhớ về cha mẹ, quê nhà xa cách, nỗi cô đơn và khát khao sum họp. Cánh hoa trôi man mác trên ngọn nước mới sa gợi trong lòng Kiều nỗi buồn về thân phận trôi nổi, không biết rồi sẽ bị trôi dạt, bị vùi dập ra sao:



"Buồn trông ngọn nước mới xa

Hoa trôi man mác biết là về đâu!"



Cách làm Kiều xót xa cho duyên phận, số kiếp của mình. Sau một cửa biển một cách hoa giữa dòng nước là cảnh của một nội cỏ.



"Buồn trông nội cỏ dầu dầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh".



Cả một nội cỏ trải ra mênh mông nhưng khác với cỏ trong ngày Thanh minh. Đó là "cỏ non xanh rợn trân trời", còn cỏ ở đây "dầu dầu". Một màu vàng úa gợi tới sự héo tàn, buồn bã. Màu xanh nhàn nhạt trải dài từ mặt đất tới chân mây không phải màu xanh của sự sống của hy vọng mà chỉ gợi nỗi chán ngán vô vọng vì cuộc sống vô vị, tẻ nhạt, cô quạnh này không biêé bao giờ mới kết thúc. Cảnh mờ mịt cũng giống như tương lai mờ mịt, thân phận nội cỏ hoa héo của Thúy Kiều. Và cuối cùng là cảnh con sóng nổi lên ầm ầm sau cơn gió:



"Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi."



Tiếng sóng như báo trước sóng gió dữ dội của cuộc đời hay cũng chỉ là tiếng kêu đau đớn của Kiều đồng vọng với thiên nhiên. Kiều không chỉ buồn mà còn lo sợ, kinh hãi như đang đứng trước sóng gió, bão táp của cuộc đời này sắp đổ xuống đầu nàng. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động. Cảnh ngày một rõ hơn để diễn tả nỗi buồn từ man mác mông lung đến âu lo kinh sợ dồn đến bão táp nội tâm. Thiên nhiên chân thực, sinh động nhưng mờ ảo bởi nó được nhìn theo quy luật "cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu, người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Và đó cũng là hiện thân, là tang vật của quá khứ khổ đau, hiện tại lẻ loi bất hạnh và báo hiệu một tương lai khủng khiếp. Tất cả đều là hình ảnh về sự vô định, mong manh, vô vọng, sự trôi dạt, bế tắc. Đoạn thơ gồm bốn cặp câu lục bát cũng là bốn cảnh và cặp câu được liên kết nhớ điệp ngữ "buồn trông".



"Buồn trông cửa biển chiều hôm

Buồn trông ngọn nước mới xa

Buồn trông nội cỏ dầu dầu

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh".



"Buồn trông" là nhìn xưa mà trông ngóng một cái gì mơ hồ sẽ đến làm thay đổi hiện tại nhưng trông mà vô vọng. "Buồn trông" có cái thoảng thốt lo âu, có cái xa lạ cuốn hút tầm nhìn, có cả sự dự cảm hãi hùng của người con gái lần đầu lạc bước giữa cuộc đời ngang nửa. Điệp ngữ kết hợp với hình ảnh đứng sau cùng các từ láy đã diễn tả nỗi buồn với nhiều sắc độ khác nhau, trào dâng lớp lớp như những con sóng lòng. Điệp ngữ tạo nên những vần bằng, gợi âm hưởng trầm buồn man mác, diễn tả nỗi buồn mênh mang sâu lắng, vô vọng đến vô tận. "Buồn trông" trở thành điệp khúc của đoạn thơ cũng như điệp khúc của tâm trạng. Bằng một gam màu nhạt và lạnh, Nguyễn Du đã vẽ lên một bộ tớ bình tâm trạng hết sức độc đáo và xúc động. Khúc ca khép lại đầy dư âm với hòa tấu phức điều của sóng biển, "sòng lòng", "sóng dời" đang vang lên những tiếng gầm gào của hiểm họa như muốn hất tung, nhấn chìm người con gái cô đơn, tội nghiệp trên điểm tựa chiếc ghế đời mỏng manh. Lúc này Kiều trở nên tuyệt vọng., yếu đuối nhất để rồi sự bị lừa gạt và dấn thân vào cuộc đời "thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần". Để thể hiện tâm trạng phức tạp mỗi nỗi buồn ôm trọn ba nỗi buồn: buồn nhớ người yêu, buồn nhớ cha mẹ và buồn cho chính mình. Nguyễn Du đã chọn cách thể hiện "tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này" thật độc đáo tạo nên đoạn thơ tuyệt bút với bút pháp tả cảnh ngụ tình.



Tóm lại, Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh đa dạng, phong phú về ngoại cảnh và tâm cảnh khắc họa nỗi buồn, sợ hãi mà Kiều đang nếm trải, dự báo sóng gió bão bùng mà nàng phải trải qua trong mười lăm năm lưu lạc "thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần". Đoạn thơ có giá trị nhân bản sâu sắc đồng thời thể hiện tấm lòng nhân hậu, cảm thương chia sẻ của Nguyễn Du với nỗi đau của Thúy Kiều.



Nguồn: SƯU TẦM
 
Qua đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, hãy làm rõ tâm trạng thương nhớ Kim Trọng và thương nhớ cha mẹ của Kiều?



a- Kiều nhớ đến Kim Trọng:



+ Phù hợp với quy luật tâm lí: Kiều luôn day dứt, tự trách mình là người phụ tình của Kim Trọng. Và đây là sự tinh tế trong ngòi bút của Nguyễn Du.

+ Nhiều hình ảnh ẩn dụ:

· “chén đồng” => Kiều luôn nhớ đến lời thề đôi lứa.

· “tin sương” => Kiều tưởng tượng cảnh Kim Trọng đang hướng về mình, chờ đợi một cách vô ích.

· “tấm son” => vừa là tấm lòng thương nhớ của Kiều dành cho Kim Trọng không bao giờ nguôi, vừa là tấm lòng son của Kiều bị hoen ố, không bao giờ gột rửa được.

=> Nhớ về Kim Trọng trong tâm trạng đau đớn, xót xa.



b- Kiều nhớ về cha mẹ.



+ Thương cha mẹ sáng chiều ngóng tin con.

+ Thành ngữ: “Quạt nồng ấp lạnh” => Xót xa, e sợ khi mình không chăm sóc cho cha mẹ được.

+ Điển cố: “sân lai, gốc tử” => sự thay đổi, sự tàn phá của thời gian làm cho cha mẹ ngày càng già yếu.

=> Nhớ về cha mẹ, Kiều luôn ân hận mình đã phụ công sinh thành, phụ công nuôi dạy của cha mẹ.

Kiều là người đáng thương nhất nhưng nàng đã quên cảnh ngộ của mình để nghĩ về Kim trọng, nghĩ về cha mẹ. Kiều là người thủy chung, người con hiếu thảo, người có tấm lòng vị tha đáng trọng.
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Phân tích thực trạng xuất khẩu tại công ty TNHH sản xuất thương mại Đức Hân giai đoạn 2005 - 2009 Luận văn Kinh tế 0
D vận dụng phương pháp dãy số thời gian phân tích biến động của doanh thu của ngân hàng Ngoại thương Việt nam giai đoạn 2000-2009 Luận văn Kinh tế 0
D Phân tích tình hình cho vay khách hàng cá nhân tại Sacombank - chi nhánh Gò Vấp giai đoạn 2012 - 2014 Luận văn Kinh tế 0
D Tính toán phân tích độ tin cậy của hệ thống cung cấp điện và đánh giá hiệu quả của các thiết bị phân đoạn Khoa học kỹ thuật 0
G Phân tích thu nhập và giáo dục của hộ gia đình giai đoạn 2002 – 2006 Luận văn Kinh tế 0
H Phân tích thống kê tình hình khách du lịch quốc tế đến Việt Nam giai đoạn 1995-2008 và dự đoán đến n Luận văn Kinh tế 3
N Phân tích kết quả kinh doanh thương mại của công ty TNHH thương mại và kỹ thuật Tân Liên Minh giai đoạn 2003-2007 Luận văn Kinh tế 2
I Phân tích thống kê chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện tam nông tỉnh phú thọ giai đoạn 2001 – 2008 và đ Luận văn Kinh tế 0
N Vận dụng một số phương pháp thống kê vào phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty Cổ phần Đầu tư Công đoàn BIDV giai đoạn 2003 -2008 Luận văn Kinh tế 3
N Phân tích thống kê thực trạng lao động tại Công ty vận tải hành khách đường sắt Hà Nội giai đoạn 200 Luận văn Kinh tế 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top