tctuvan

New Member
Vấn đề chính cần làm rõ :
- Quá trình suy ngẫm bản thân của nhà thơ trước hiện thực xây dựng đất nước
- Hành trình “từ chân trời một người đến chân trời tất cả”
- Vẻ đẹp của Tây Bắc trong những ngày kháng chiến chống Pháp : lòng biết ơn nhân dân đã chuyển hóa từ cảm xúc đến nhận thức lý trí nhuần nhuyễn
- Sự chuyển đổi phong cách nghệ thuật Chế Lan Viên trước và sau cách mạng

Dàn ý tham khảo cho anh em

Phân tích bài thơ: Tiếng hát con tàu - Chế Lan Viên

I. Mở bài


Chế Lan Viên là một trong những nhà thơ kiệt xuất của phong trào thơ hiện đại Việt Nam. Trải qua 50 năm miệt mài lao động nghệ thuật và sáng tác, Chế Lan Viên để lại cho đời một kho tàng thơ đậm chất triết lý và có sự biến đổi qua nhiều giai đoạn. Nếu như trước cách mạng, thơ ông hướng về một thế giới siêu thực, bí ẩn và từ chối cuộc đời thì ánh sáng của cách mạng đã đưa ông trở lại với cuộc sống cùng những sáng tác hướng về cuộc đời, về nhân dân, về cách mạng. Đánh dấu cho sự thay đổi này là tập thơ “Ánh sáng và phù sa ‘’, mà “ Tiếng hát con tàu ‘’ là một trong số những bài tiêu biểu cho tập thơ đó.

Bài thơ là lời kêu gọi mọi người đi đến xây dựng những vùng đất xa xôi của Tổ quốc, cũng như thể hiện sâu đậm tình cảm của tác giả đối với quê hương nói chung, và miền đất Tây Bắc nói riêng.

II. Thân bài

Tác giả:

Chế Lan Viên tên thật là Nguyễn Ngọc Hoan, ông sinh năm 1920 tại Quãng Trị, nhưng ông đã trải qua phần lớn thời ấu thơ và trưởng thành ở miền quê thứ hai, Bình Định. Ông làm thơ từ rất sớm. Tập thơ đầu tay “Điêu tàn ‘’ xuất bản khi ông vừa mười bảy tuổi, đạt thành công vang dội đã đưa ông vào hàng ngũ những nhà thơ tiêu biểu của phong trào mới. Ông từng tham gia kháng chiến, làm báo và đi khắp mọi miền đất nước. Trong suốt cuộc đời mình, ông nhiều năm ở cương vị ban lãnh đạo hội nhà văn Việt Nam, tham gia những diễn đàn quốc tế về văn học. Chế Lan Viên mất vào năm 1989. Sau đó bảy năm, tức năm 1996, ông được nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học-nghệ thuật (đợt I ).

Hoàn cảnh sáng tác:


Trong những năm sáu mươi, miền Bắc tưng bừng không khí nhộn nhịp đi dựng xây những miền đất tươi đẹp của tổ quốc, đặc biệt là miền Tây Bắc. Trên tinh thần đó, nhà thơ sáng tác nên “ Tiếng hát con tàu ‘’.

Ý nghĩa tựa đề:
Thực ra, vào thời điểm ấy thì vẫn chưa có con tàu nào để lên Tây Bắc. Do đó, ‘’ con tàu ‘’ ở đây là hình ảnh lãng mạn, tượng trưng cho ý nguyện đi đến dựng xây Tây Bắc cùng mọi miền đất nước. “ Tíếng hát ‘’ ở đây có thể là bài vè, câu hò, bài thơ mang âm điệu tươi vui, giục giã mọi người lên đường về Tây Bắc.

Phân tích:

Khổ đề từ: Lời đề từ cho một tác phẩm , ngoài việc mở đầu cho tác phẩm thì nó còn nêu bật nội dung ẩn chứa bao quát trong bài. Và “ khổ đề từ ‘’ trong “ Tiếng hát con tàu ‘’ cũng không phải là ngoại lệ:
“ Tây Bắc ư, có riêng gì Tây Bắc

Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu ‘’


Khổ thơ bắt đầu bằng một câu hỏi tu từ “ Tây Bắc ư, có riêng gì Tây Bắc ‘’, mà nội dung là khẳng định tấm lòng yêu nước của tác giả hướng về khắp mọi miền đất xa xôi, hẻo lánh của tổ quốc, chứ nào có riêng gì Tây Bắc.

Mạch thơ tiếp tục bằng hai sự hóa thân của chủ tể tác giả:

“ Khi lòng ta đã hóa những con tàu ‘’

và “ Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu ‘’


“ Con tàu ‘’, như đã nói ở trên, là hình ảnh lãng mạn, tượng trưng cho ước nguyện đi khắp mọi miền của tổ quốc. Và một khi “ Tâm hồn ta là Tây Bắc ‘’, tức là tác giả đã tự khẳng định mục tiêu đến của mình là những miền đất xa xôi của tổ quốc-Tây Bắc. Cả hai sự hóa thân này đều làm toát lên một điều rằng: tác giả-, thay mặt cho cả một thế giới trẻ thanh niên và văn nghệ sĩ đều đang hướng về những miền đất xa xôi diệu vợi của quê nhà.

Tâm trạng này rất khác so với tâm trạng tự cô lập mình trong những tác phẩm trước đây của tác giả Chế Lan Viên, khi mà ông tuyệt vọng thốt lên rằng:

“ Với tui tất cả đều vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau ‘’


Tác giả đã nhìn thấy trong đất nước một tương lai tươi sáng hơn, với tiếng hát vang khắp “ tổ quốc bốn bề ‘’.

Lời kêu gọi lên đường:
Và để biến suy nghĩ thành hành động thực tế, ông đã mời gọi rằng:

“ Con tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng ‘’

Sau đó ông lại thuyết phục rằng:

“ Bạn bè đi xa, anh giữ trời Hà Nội
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ở ngoài kia, tàu đối những vành trăng ‘’


Dường như, ông tự hỏi và cũng tự động viên mình, nhân vật “ anh ‘’ lên đường về Tây Bắc. Và lý do lớn nhất để đi là do “tàu đói những vành trăng ‘’, tức là ông muốn ra đi để tìm cảm hứng nghệ thuật.

Mạch thơ lại tíếp tục với:

“Đất nước mênh mông, anh nhỏ hẹp.
Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi ‘’


Một lý lẽ mới được đưa ra, đó là “ảnh ‘’ nên đi để nhìn thấy đất nước, để nhìn thấy những miền đất lạ trước đây chưa biết đến. Ý tưởng này y hệt với ý đưa ra trong:

“ Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp
Giâc mơ con đè nát cuộc đời con ‘’


(Người đi tìm hình đất nước) - của chính tác giả.

Và một lần nữa, nguyện vọng ra đi tìm cái đẹp của nghệ thuật chân chính lại được nhắc đến:

“ Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia ‘’


Kết hợp với những câu ở khổ trên, hai câu thơ này đã cho ta thấy nhận thức của tác giả về cái đẹp nghệ thuật&vẻ đẹp của sự lao động, hy sinh, cống hiến, giống như Bác đã từng nói: “ Lao động là vinh quang ‘’.

Nỗi nhớ của tác giả:

Mìền núi Tây Bắc:

Mạch thơ đột nhiên chuyển sang trầm lắng, nhớ nhung, đầy sự hoài cảm:

“ Trên Tây Bắc, ôi mười năm Tây Bắc,
Xứ thiêng liêng, rừng núi đã anh hùng ‘’


Hai câu thơ tồn tại song hành với nhau thành một cặp câu cảm thán, không thể tách rời nhau, hệt như hai chiếc của một đôi đủa vậy. “ Mười năm ‘’ ở đây là chỉ thời gian diễn ra cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Trong tâm trí tác giả, Tây Bắc là miền đất linh thiêng, rừng núi Tây Bắc, tượng trưng cho chính con người Tây Bắc cũng thật anh hùng. Tây Bắc tồn tại trong hồn Chế Lan Viên, hệt như là một miền đất với nhiều giá trị thiêng liêng, cao quý. Nếu Chế Lan Viên nhớ Tây Bắc bằng nỗi nhớ da diết, nể trọng thì Quang Dũng lại nhớ rừng với những hồi ức đẹp:

“ Sài khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lái hoa về trong đêm hơi ‘’

(Tây tiến)

Mạch thơ tiếp tục với:

“ Nơi máu rỏ, tâm hồn ta thấm đất
Nay dạt dào đã chín trái đầu xuân ‘’


Chế Lan Viên nhớ Tây Bắc vì đây là nơi “ máu rỏ ‘’, tức là nơi mà ông và đồng đội đã từng chiến đấu. Và mảnh đất bị tàn phá ngày xưa đã tự hồi phục lại, khi mà nó “ chín trái đầu xuân ‘’.

Nhớ về cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ gian khổ, nhà thơ lại xúc động, bồi hồi thổ lộ:

“Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa
Nghìn năm sau còn đủ sức soi đường‘’


Tác giả tự ví cuộc kháng chiến rực rỡ, sục sôi như “ ngọn lửa ‘’- ngọn lửa

niềm tin sắt đá của người chiến sĩ vào chiến thắng ngày mai, ngọn lửa yêu nước bừng cháy trong lòng của mỗi con người Việt Nam. Và sức mạnh của ngọn lửa đó đủ soi đường cho bao thế hệ mai sau, hệt như kim chỉ nam của chân lý lòng yêu nước, hệt như Tố Hữu đã nói “Mặt trời chân lý chói qua tim” ( Từ ấy ).

Nổi nhớ người dân Tây Bắc:

Hai câu thơ chuyển ý:

“ Con đã đi nhưng con cần vượt nữa,
Cho con về gặp lại mẹ yêu thương ‘’


đã sử dụng cách xưng hô mới, thân mật hơn bằng từ “ con ‘’ và “ mẹ ‘’.

Ở đây, “ con ‘’ và “ mẹ ‘’ đều là nhân vật trữ tình, khi tác giả bày tỏ tình cảm của mình qua đoạn đối thoại. “ Mẹ ‘’, theo cảm nhận của một số người, là thay mặt cho cả mìền núi và nhân dân Tây Bắc yêu thương của tác giả.

Nhớ Tây Bắc, trước tiên là nhớ đến người dân nơi đây:

“ Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ,
Cỏ gặp giêng hai, chim én gặp mùa ‘’




DÀN Ý CHI TIẾT 2 :

I. ĐVĐ :

1. “Tây Bắc ư ? Có riêng gì Tây Bắc...”

Quả đúng như lời đề từ cho bài thơ “Tiếng hát con tàu”, Chế Lan Viên đã gửi gắm những suy nghĩ, xúc cảm phong phú vào một đề tài mang tính thời sự của những năm 1958 –1960 : phong trào khai hoang xây dựng kinh tế ở vùng rừng núi Tây Bắc. Vượt qua lối minh họa thông thuờng cho đường lối chủ trương của Đảng, nhà thơ đã tự thể hiện tâm sự của một lớp ngươì cầm bút về đất nước và nhân dân, với tình cảm chân thành và khát vọng mãnh liệt của cả một dân tộc trong thời đại mới.

2. Bằng phong cách nghệ thuật trí tuệ sắc sảo, tài hoa trong ngôn ngữ và hình ảnh thơ, cùng tấm lòng, ý thức của người nghệ sĩ gắn bó với cuộc sống, bài thơ vẫn nguyên vẹn sức sống đến hôm nay.

II. GQVĐ :

A. Con đường đi đến “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên :

1. Có thể xem bốn câu thơ đề từ của tác phẩm như là sự gói ghém trọn vẹn nỗi niềm của nhà thơ Chế Lan Viên, là sự trải nghiệm của một người có hơn hai mươi năm cầm bút để đi đến một chân lý giản đơn:

Tây Bắc ư ? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu

2. Một thần đồng thơ sáng chói vào năm 17 tuổi, cảm nhận cuộc sống qua lăng kính của một cái tui “tất cả như vô nghĩa, tất cả không ngoài nghĩa khổ đau”, chìm đắm trong quá khứ của một dân tộc “điêu tàn”, có lẽ để “khi lòng ta đã hóa những con tàu”, Chế Lan Viên đã phải trải qua bao lần tự soi thấu vào lòng mình để chọn một hướng đi. Câu thơ nói lên một nhận thức mới, một sự lột xác toàn diện, gắn với cảm giác thanh lọc và bay bổng của tâm hồn. “Con tàu”, trong cách nói của thi sĩ hẳn khác “con tàu say” của các thi sĩ lãng mạn nhiều lắm, bởi hành trình lần này là “từ chân trời một người đến chân trời tất cả”, là tình cảm “khởi phát tự lòng người” đi đến với cuộc đời.

3. Ta chợt nhận ra ý nghĩa nhan đề của bài thơ : “tiếng hát con tàu”, “khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát”. Thời điểm có ý nghĩa thật lớn lao! Gắn với không khí hào hứng sôi nổi của cả một đất nước hồi sinh, tâm hồn nhà thơ được chắp cánh cùng “tiếng hát” hòa điệu vào bản đại hợp xướng của dân tộc, là men say khát vọng của thời đại mới – tràn trề “Ánh sáng” và tươi rói “Phù sa”. Hiện thực – khát vọng, cái riêng và cái chung hòa quyện, làm nên ngân vang “ tiếng hát của tình yêu nhân dân” (Nguyễn Xuân Nam).
B. Phân tích chi tiết :

1. Tiếng hát vang lên như một lời giục giã, mời gọi lên đường : Hai khổ thơ mở đầu cũng chính là tâm sự của nhà thơ :

Con tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng
(...) Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia

Một câu hỏi hay một lời tự vấn? “Anh” là ai? Trong một đại từ nhân xưng ngôi thứ hai số ít, câu hỏi đã tạo ra một cuộc đối thoại trực tiếp : với bạn thơ và với chính mình. Hai vị thế khác nhau : một bên là những người đang được hút vào không gian động “lên Tây Bắc” với âm thanh “gió ngàn rú gọi” và một bên là anh – còn lưu luyến một “trời Hà Nội” bình yên. Hai không gian – hai thái cực được đặt vào tiếng “tàu gọi” thúc bách về thời gian, như đòi hỏi một chọn lựa dứt khoát. Hàng loạt hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng đã nối kết thành những suy ngẫm về ý nghĩa cuộc đời của mỗi con người. Làm gì đã có đường tàu lên Tây Bắc vào những năm 1958 – 1960? Chỉ có con tàu “đói những vầng trăng” – đến với khát vọng của muôn đời. Phải chăng suy tưởng của Chế Lan Viên đã gặp mạch cảm xúc ngày trước của Xuân Diệu: “trăng vú mộng đã muôn đời thi sĩ” trong hình ảnh “vầng trăng”. Thế nhưng con tàu thơ của Chế Lan Viên đâu phải chơi vơi trong vầng trăng lãng mạn trước kia, nó đang lao về phía trước, hứng gió ngàn mạnh mẽ của hiện thực, “lên Tây Bắc” là bay lên cùng ước mơ. Một cuộc ra đi vĩ đại để tìm thi hứng, cuộc sống đang mời gọi, “anh đi chăng?”, “anh có nghe?”, “sao chửa ra đi?”. Những câu hỏi dồn dập như xoáy sâu vào những trăn trở suy tư về thiên chức của người cầm bút trước hiện thực vĩ đại của dân tộc. Không ai khác, người đặt ra câu hỏi ấy chính là chàng trai mười bảy tuổi năm xưa đã từng coi “tất cả như vô nghĩa”, qua quá trình trải nghiệm đã nhận thức lại sự non nớt trong ám ảnh của một thời khổ đau. Hỏi để tự khẳng định dứt khoát với chính mình, dù phải trải qua bao trăn trở cũng phải xác định hướng đi rõ ràng. Thời “Điêu tàn”, Chế Lan Viên từng viết :
Ta nằm ở giữa cân trời đất

Khối ngọc chưa nghiêng một hướng nào

Cái tui lúc ấy sao mà ngạo nghễ! Còn giờ đây anh mới có thể nhận ra cái tầm thường thảm hại của nó khi đặt vào thế tương phản với “đất nước mênh mông”. Cả cái vũ trụ bí mật anh tưởng mình đã khám phá ra, giờ thu lại trong một vỏ ốc của một “lòng đóng khép”. Hiện thực cuộc sống vĩ đại đòi hỏi mỗi nhà thơ phải mở lòng đón nhận, để tự nhận ra khuôn mặt chính mình. Khi sống hết mình cùng cuộc đời chung, đó là lúc tâm hồn anh mới thật sự trở thành “khối ngọc”.

2. Lên Tây Bắc cũng là về nguồn :

Hình ảnh Tây Bắc hiện lên trong tâm trí nhà thơ song hành cùng kỷ niệm mười năm kháng chiến gian khổ và anh dũng, mười năm nhà thơ đi tìm lại chính mình :

Trên Tây Bắc! Ôi mười năm Tây Bắc
Xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng
Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất
Nay rạt rào đã chín trái đầu xuân

Ôi kháng chiến, mưòi năm qua như ngọn lửa
Nghìn năm sau còn đủ sức soi đưòng
Con đã đi nhưng con cần vưọt nữa
Cho con về gặp lại Me yêu thương

“Mười năm” – với lịch sử chỉ là một cái chớp mắt, với đời người cũng chỉ như một giấc chiêm bao, nhưng đối với một lớp ngưòi như Chế Lan Viên thì đó là cả một quá trình lột xác đầy đau đớn mà thiêng liêng. Tây Bắc là một giá trị đưọc khẳng định đầy tự hào trong quá khứ : Xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng, nơi một con người Chế Lan Viên mới đã được khai sinh. Mảnh đất ấy là ân tình, là “máu đỏ” thấm vào đất, để thấm vào huyết quản, để nhà thơ một lần nữa cảm nhận một cách đầy tự hào ba tiếng “tâm hồn ta”. Đó là tấm lòng của một con người hiểu được giá trị của những hy sinh mất mát., hiểu đưọc màu đỏ thiêng liêng đã nhuộm máu bao lớp ngưòi anh dũng. Đó còn là niềm sung sưóng của con người nhìn sắc “chín trái đầu xuân”, tự nhìn lại mình để biết ơn sâu sá8c hơn mảnh đất đã tạo độ chín trong nhận thức. Cũng là hình ảnh hiện thực rạt rào niềm vui

Giọng thơ ấy không đơn thuần là tiếng nói lý trí mà chính là ân tình sâu nặng với kháng chiến. Những thán từ vang ra từ sâu thẳm lòng mình đã đưa nhà thơ sống lại với tất cả những ân tình kháng chiến, nói lên tiếng nói tâm tình của đứa con trong phút quay về. Từ thực tại, dòng suy tưởng nối kết “mười năm” quá khứ và “nghìn năm sau” trong ánh sáng bừng lên của “ngọn lửa” bất diệt. Dòng thơ là mạch cảm xúc tuôn chảy của dòng suối ngầm tình cả nguồn ân tình đằm thắm của dân tộc. Mỗi một cách xưng hô là sự biến chuyển của nhận thức và tâm trạng. Khi nhà thơ xưng “Con” và Tây Bắc trở thành “Mẹ yêu thương”, nhà thơ đã thật sự vượt qua ranh giới của cái tui bé nhỏ để đến với Tổ quốc – nhân dân bằng một tình yêu giản dị chân thành.

3. Tâm sự gắn cùng những hình ảnh kỷ niệm thân thương :

a/ Đứa con đi xa trở về với Mẹ, biết bao là cảm động và ý nghĩa thiêng liêng trong giờ phút gặp lại :

Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa

Sức sống mới của tâm hồn đưọc diễn tả qua những hình ảnh liên tưởng khái quát đã nói lên mối quan hệ mật thiết gắn bó của nhà thơ với nhân dân – những con người của một thời “hắt hiu lau xám , đậm đà lòng son”. Nhữnggian khổ của ngày hôm qua đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận, niềm vui sướng hồi sinh của tâm hồn. Tấm lòng biết ơn được thể hiện bằng những hình ảnh giàu sức biểu cảm, tình cảm ấy còn thiêng liêng hơn cả nỗi niềm của một “cố nhân”. Thời điểm “gặp lại” không phải là một thoáng tình cờ, mà là một cuộc gặp gỡ để những ân tình của nhân dân theo suốt một đời. Một cách nói giản đơn nhưng đó là kết quả của một quá trình thâm nhập để có thể cùng chung nhịp đập với dân tộc của cả một lớp người.

b/ Cùng với niềm vui gặp lại là một nỗi nhớ mênh mông, những kỷ niệm một thời gian khổ ùa về, hiện hình cụ thể thành những “anh con”, “em con”, “mế” trong đại gia đình cách mạng. Hình ảnh ấy là những ân tình gắn bó tha thiết của nhà thơ với nhân dân, là chân lý của đời thuờng vô cùng giản đơn nhưng sâu sắc. Trong tâm trí nhà thơ, những con người của ngày hôm qua chính là hiện thân cụ thể của một khái niệm trừu tượng không dễ dàng hiểu nổi : Cách mạng. Cách mạng là sự chuyển giao giữa các thế hệ gắn với gian khổ, hy sinh và trách nhiệm. Là “chiếc áo nâu suốt một đời vá rách – Đêm cuối cùng anh gửi lại trao con”. Cách mạng là ân tình với đồng chí, đồng bào, là tình quân dân cá nưóc, là tình người trong kháng chiến. Mảnh đất và con ngưòi Tây Bắc sống cùng ký ức vẹn nguyên của nhà thơ để làm nên một nhận thức sâu sắc :

Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn

Tây Bắc xa xôi bỗng trở nên gần gũi, khi trái tim con người vang nhịp đập “yêu thương”. Đã từ rất lâu, lời tâm tình này của Chế Lan Viên đã thành câu nói cửa miệng biểu hiện tâm tình sâu đậm của mỗi con ngưòi. Đó chính là “tiếng ca từ lòng mình” mà nhà thơ đã chắt lọc ra từ những ngày kháng chiến. Tình cảm ấy vừa là tình cảm của ngưòi con cách mạng với quê hương kháng chiến, vừa là tâm huyết của con người hiểu trọn vẹn hai chữ “thủy chung” trong mạch nguồn dân tộc. Đó là sự khởi nguồn cho tình yêu bất tận :

Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương

Lên Tây Bắc là trở về trong vòng tay của mẹ, trong tình yêu của em, trong sắc màu nhung nhờ và mùi hưong nếp mới. Để từ kỷ niệm tạo ra cảm giác mới mẻ, ắp tràn, phong phú của mọi giác quan, để cảm nhận đầy đủ hơn về Tây Bắc – Đất nước và nhân dân.

4. Tiếng hát của khát vọng :

Tình nghĩa của ngày hôm qua đã tạo nên sức sống của thời đại mới, khơi nguồn cho những khát vọng về tương lai. Bằng lối triết lý đầy trí tuệ, Chế Lan Viên đã chọn lọc những biểu tượng khái quát từ những hình ảnh quen thuộc hàng ngày trong cuộc đời hằng thấy :

Mắt ta nhớ mặt người tai ta nhớ tiếng
Mùa nhân dân giăng lúa chín rì rào
Rẽ người mà đi, vịn tay mà đến
Mặt đất nồng nhựa nóng của cần lao...

Cuộc sống mới hiện hình trong mùa thu hoạch tràn đầy cảm hứng thời đại. Thời gian, công sức, sự hy sinh của bao lớp ngưòi kết thành khối vàng mười rực sáng của niềm tin, tạo thành nhựa sống mạnh mẽ cho hồn thơ Chế Lan Viên. Nhà thơ bộc bạch :
Tây Bắc ơi, Người là Mẹ của hồn thơ

Tưởng chừng nhà thơ không làm thơ nữa mà chỉ là lời tâm sự của một con người say mùi hưong chân lý, tận hưởng gió mới của cuộc sống xây dựng. Khát vọng, tình yêu lớn và suy nghĩ về tương lai tốt đẹp đã làm nên cảm hứng lãng mạn bay bổng cùng dân tộc.
C. Khái quát tóm ý :

1. Khi từ thế giới của cái tui đến với cuộc đời chung, nhà thơ đã tìm ra dòng cảm hứng bất tận cho thơ ca bắt nguồn từ chính cuộc sống khẩn trương của nhân dân đang chuyển mình. Bài thơ là kết tinh sáng tạo của một chặng đưòng thơ mới của Chế Lan Viên, vừa là tiếng nói dạt dào cảm xúc vừa gắn với một tài hoa trí tuệ, đạt đến độ nhuần nhuyễn giữa lý trí và tình cảm.

2. Có thể nhận ra một bản lĩnh thơ của Chế Lan Viên khi ông không sa vào kể lể những sự kiện minh họa cho tư tưởng lớn của Đảng như các nhà thơ cùng thời. Vì vậy, bài thơ không phải là tiếng nói của một thời mà đã thấm nhuần chân lý của đời sống, có sức sống bền bỉ. Đó là kết quả của một chặng đưòng nhà thơ thâm nhập để phát hiện bản chất tốt đẹp của cuộc sống mới. Tiếng lòng một người đã tạo thành độ cộng hưởng cảm xúc lớn đến với muôn người, chuyển tải những tình cảm chính trị hòa nhập vào đời sống tình cảm của cá nhân, hòa nhập Riêng – Chung làm một. Nhà thơ đã nói lên đưọc tâm tình của cả một lớp người giác ngộ sâu sắc vai trò của cách mạng và nhân dân bằng tình yêu chân thành, tự nhiên.

III. KTVĐ :

Lịch sử đã sang trang, dân tộc ta đang tiếp tục hành trình vào thiên niên kỷ mới. Trong không khí đất nưóc thanh bình, đọc lại “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên, ta như cảm nhận được âm vang của một thời đại dân tộc say mê cùng lý tưởng vẫn lan tỏa đến tận hôm nay. Tiếng thơ ấy không chỉ gợi lên những suy nghĩ về trách nhiệm của mỗi nguời gắn cùng dân tộc mà còn khơi dậy những ân tình với quá khứ. Bài thơ của Chế Lan Viên vẫn đi cùng năm tháng bằng suy ngẫm, tình cảm máu thịt gắn bó với nhân dân, đất nước, thời đại. Nhà thơ như đang nói cùng chúng ta :

Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu.. .
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top