Phillip

New Member

Có nên làm bác sĩ không con





Chúng ta thiếu thầy thuốc là thế, nhưng một số người vẫn phải chạy sang Âu, sang Mỹ kiếm ăn! Thì ra có những nhà thông thái nửa mùa của chúng ta muốn rằng các bạn sĩ trẻ học ở nước ngoài trở về trước hết phải qua một kỳ sát hạch rồi mới được hành nghề.

- Anh về nước làm gì? - Một bác sĩ già, giàu kinh nghiệm, làm giám khảo hỏi.

- Ðể làm việc, để chữa bệnh ạ.

- Hừm, tất nhiên... Ngoài ra anh còn biết làm gì nữa?

- Thế là thế nào ạ?

- Thế là thế, chứ còn thế nào nữa? Thí dụ, biết sáng tác nhạc, làm thơ, đóng phim, buôn bán... Hay cũng có thể anh có khả năng làm nghị viện, làm bộ trưởng, làm chính khách... Tất nhiên anh sẽ phải làm một chuyện gì như thế chứ.

- Dạ, không. Cháu chỉ chữa bệnh thôi ạ. Cháu con nhà nghèo, làm cho nhà nước lương không đủ ăn, nên cháu sẽ làm tư...

- Hà... hà... hà... Không có ham chánh, phó giáo sư mà đòi làm tư? Thế lấy ai dẫn khách cho anh lúc đó?

- Tức là dẫn bệnh nhân ấy ạ?

- Phải, khách ấy mà...

- Chắc là bệnh nhân tự đến lấy...

- Làm sao bệnh nhân tự đến được?

- Nếu bệnh nặng thì có xe chở đến...

- Ðược rồi, vậy cái người chở bệnh nhân ấy tên là gì?

- Làm sao cháu biết được tên anh ta, anh ta vừa chở cho cháu bao giờ đâụ

- tui không hỏi tên riêng mà hỏi cái loại người chở khách bệnh nhân ấy gọi là gì?

- ?...

- Loại đó gọi là lái,coi nhưlái buôn ấy... Ðằng này là lái y học. Như anh chẳng hạn, anh cũng không bao giờ gửi bệnh nhânphòng chốngkhám công đến bác sĩ tư, phải không nào? Nếu không ai chỉ thì sao bệnh nhân đến chỗ anh được? Một điều như thế mà ở nước ngoài người ta cũng không dạy anh hay sao? Thôi được, bây giờ anh nói đi, thế nào là hữu ái nghề nghiệp?

- Là tương trợ lẫn nhau, phải không ạ?

- Thế là anh không biết rồi, để tui giảng cho mà nghe. Giả dụ bây giờ có người đến kêu với anh là bị bệnh trĩ. Anh khám xong rồi gửi đến cho một người chuyên về phụ khoa...

- Người ta bị trĩ sao lại gửi đi phụ khoa?

- Bạn anh ăn trước rồi lại gửi cho một người bạn khác chữa răng...

- Nhưng...

- Tay nha sĩ ấy lại gửi đi da liễu, da liễu lại gửi đi chiếu điện, chiếu điện lại gửi đi nhãn khoa. Cuối cùng hắn ta bị gửi đi thần kinh. Ðến lúc ấy thì thần kinh của hắn cũng suy sụp thật... Nếu hắn còn đủ cơm ăn nước uống thì rồi tự hắn sẽ khỏi bệnh, nhược bằng không thì hắn sẽ chết và bệnh cũng hết. Chết rồi hắn lại còn phải rơi vào tay thầy thuốc một lần nữa, đó là tay giải phẫu lâm sàng. Thôi, bây giờ anh nói đi, anh phải làm gì để được nổi tiếng?

- Cháu sẽ cố gắng điều trị giỏi và sống có lương tâm...

- Hức!... Nghe đây! Anh phải lăng xê lên báo một câu quảng cáo: “Người cùng kiệt khám không lấy tiền. Hàng ngày khám sau bữa cơm trưa.” Khi khách đến hơi đông anh rút xuống chỉ khám thứ hai, thứ năm... Sau đó mỗi tuần một lần, sau đó mỗi tháng một lần... Khi khách vừa kéo đàn kéo lũ mà đến thì anh thôi không khám xuông nữa. Từ đó về sau anh cứ tăng dần trước khám. Người ta sẽ nghĩ rằng chắc anh phải có những bí quyết gì ghê gớm lắm thì mới lấy đắt như vậy. Thế là tất cả bệnh nhân đổ xô đến... Sau đó anh lại phải cho đăng báo những lời bệnh nhân gửi đến tri ân... Thôi, còn trường hợp này, nếu một bệnh nhân đến mà anh không tìm thấy bệnh gì thì anh xử lý như thế nào?

- Cháu sẽ bảo rằng anh ta khỏe...

- Chặc... chặc...! Thế mà cũng đòi làm bác sĩ! Chẳng lẽ trên đời lại có người trả toàn khỏe mạnh? Mà nếu như quả thật hắn ta không có bệnh gì thì anh cũng phải cho hắn một cái đơn chữ rất ngoáy đến nỗi hắn không tài nào đọc được rồi bảo hắn ra hiệu thuốc... Dù anh có viết trời đất gì đi nữa thì thằng chủ hiệu rất tâm lý kia sẽ tìm ra ngay vô khối bệnh tật cho khách... Hừ, anh càng viết mờ mịt bao nhiêu thì tờ hóa đơn lại càng rành mạch bấy nhiêu... Ngoài ra anh lại phải thường xuyên viết báo về nhiều vấn đề khác nhau, chẳng hạn “Bàn về chế độ thuê nhà”, “Công tác bảo vệ rừng”, “Ðạo đức người lái xe”, “Vì sao người ta mất trí”... như thế là để tên tuổi anh thường xuyên xuất hiện trên mặt báo và tất cả người sẽ nói rằng: anh ta hiểu biết ghê thật! Phải khéo léo làm sao sau này lên được chức thị trưởng, tỉnh trưởng, nghị sĩ hay thậm chí bộ trưởng... Ðó, ta nhìn thấy rất rõ rằng anh không thể làm nổi bác sĩ đâu... Tốt nhất là anh nên quay lại chỗ anh mới học bên Ðức, bên Mỹ gì đó!

- Cháu xin cám ơn, chúc bác khỏe!

- Anh cũng khỏe nhé, đừng có ốm đấy!









 

dinhba_huy

New Member

Không thể thành người



Trong bọn tui chỉ cần có một kẻ nào đó hoài nghi kêu lên: “Không thể được, anh em ơi, lũ chúng ta không thành người được!” là lập tức tất cả người gật đầu tán thưởng: “Ðúng, chí phải, chí chí phải, không thể thành người!...” Và không bói đâu ra một người phản bác: “Sao lại thế! Phải tự trọng chứ!”.

Hồi còn trẻ, có một lần, dạo ấy tui vào quãng 25 tuổi, bầu nhiệt huyết còn sôi sục, tui đã cả gan chống lại luận thuyết đó.

Lần ấy tui đi tàu thủy ra đảo Hoàng Nam. Trên tàu bỗng có một người đàn ông đứng tuổi càu nhàu một mình, đến hung thần cũng không hiểu vì sao tự nhiên lại thế.

- Xin lỗi các người, làm sao chúng ta có thể thành người được!

Mọi người có mặt trongphòng chốngkhách lúc ấy đều gật đầu đồng ý.

Riêng tui thì nóng mắt cự lại :

- Sao lại không thành?! Còn thành thế nào nữa!... Dứt khoát là thành!... Mà còn thành những người làm chấn động địa cầu là khác!

Mọi người trongphòng chốngkhách tưởng như ăn ý với nhau từ trước, đồng thanh kêu ầm lên :

- Bậy nào, bậy nào, không thể thành người được!...

- Chúng ta còn xa mới đuổi kịp thiên hạ!

- Chúng ta không thể thành người được!

Ðược tất cả người hỗ trợ, ông già kia bớt nóng :

- Nghe thấy chưa, con?... Các vị đây đều nhất trí ủng hộ tui đấy. Như thế nghĩa là quả thật chúng ta không thành người được. Con xem, có ai buộc các vị kêu lên thế đâu.

- Thành người!... Nhất định sẽ thành người! - tui lặp lại.

Ông già cười nhạt :

- Ðó, con vừa nói: “Nhất định sẽ thành người”. Chữ sẽ như thế nghĩa là trước đây và bây giờ chưa thành người chứ sao.

Từ bấy đến nay bao nhiêu năm trôi qua mà lúc nào tui cũng băn khoăn “Vì sao chúng ta không thành người được?”.

Lần đi tù mới đây vừa mở cho tui đôi mắt: cuối cùng tui đã tìm ra câu đáp.

Trong tù tui bị nhốt vào một khám lớn của tù chính trị. Quanh tui la cả một xã hội trí tuệ: các nhà doanh nghề nổi tiếng, các nhân sĩ lỗi lạc, các ngài tỉnh trưởng, các quan đốc học, các cựu nghị sĩ, các chính khách xuất chúng, các vị đại thần, các bậc kỹ sư, các bạn sĩ danh vang toàn cõi. Hầu hết những người này đều đỗ đạt tận châu Âu, châu Mỹ, vừa từng xuất dương và biết đến vài ba thứ tiếng.

Mặc dù cách nhìn đời của tui và họ còn khác xa nhau, nhưng trước hết là nhờ có họ mà tui hiểu ra được rất nhiều điều về cái sự tại sao chúng ta không thành người được.

Những ngày tiếp người nhà, tui được nghe toàn những tin xấu: lúc thì gia đình tui không trả được trước nhà, lúc thì chịu trước ông chủ quán nước, và biết bao nhiêu chuyện dằn vặt khác nữa. tui thấy nặng nề, ủ dột.

Tệ hơn nữa là tui có mặc cảm tuyệt cú vọng.

Bấy giờ chỉ còn một lối thoát: phải lập tức ngồi viết tiểu thuyết. May ra có một tờ báo nào chịu đăng tải thì tui kiếm được ít tiền. Nội dung cuốn sách đó tui cũng vừa thai nghén từ lâu.

Ðã quyết là làm, tui bèn đi kiếm một cây bút máy, một xấp giấy rồi ngồi chéo khoeo trên giường mà viết. Không được lãng phí thời (gian) giờ! Phải chấm dứt chuyện trò ba láp hay ngồi không nghĩ vơ nghĩ vẩn!

Chưa viết được mười dòng thì một vị phạm nhân, đều óc sáng láng đến gần tui :

- Chúng ta không thể thành người được! - Vị ấy tuyên bố ngay - Quyết không, quyết không!

tui nín im.

- Anh nói sao tui nghe nào? - Vị ấy gặng - tui vừa ăn học ở Thụy Sĩ, sáu năm làm chuyện ở Bỉ.

Rồi ông ta kể lể dài dòng và cặn kẽ về cuộc sống ở hai nước đó. tui phát rầu rĩ vì bị quấy quả đột nhiên, nhưng biết làm sao được. Thỉnh thoảng tui đưa mắt nhìn xuống, cố ý cho ông ta hiểu rằng tui rất bận và mong ông ta đứng dậy. Than ôi! bạn tui nào có biết phán đoán. Ông ta cứ thế mà nhớ đâu rồi đấy :

- Bên ấy anh sẽ thấy không ai không cầm sách vở. Một người Thụy Sĩ hay một người Bỉ có được vài phút rỗi rãi là họ mở sách ra ngay. Ði ô tô, đi tàu hỏa, chỗ nào cũng đọc. Mà giá anh thấy họ trong nhà cũng thế! Lúc nào cũng đọc, đọc và đọc...

- Chà, ghê thật, ghê thật! - tui ngắt lời ông ta với hy vọng ông ấy tha cho tui nhờ.

- Ghê hẳn đi chứ lỵ! - Ông ta nói tiếp - Còn bây giờ anh cứ thử nhìn những người quanh đây xem. Ai cũng nhận mình là trí thức mà không có ai cầm sách cả. Không, bạn thân mến của tui ơi, chúng ta không thành người được.

- Ông nói quả đúng - tui đồng ý.

tui vừa nói thế, ông ta liền hăng tiết lên gấp hai lần và lại tiếp tục câu chuyện người Bỉ người Thụy Sĩ đọc sách tất cả nơi tất cả lúc.

Ðến giờ ăn trưa. Chúng tui cùng đứng lên.

- Chúng ta không thành người được. Bây giờ anh vừa rõ vì sao như thế chưa? - Ông ta hỏi.

- Rõ - tui đáp.

Thế là tui mất đứt nửa ngày để nghe một bài giảng về lòng hiếu sách của người Thụy Sĩ và của người Bỉ.

Nuốt vội vàng mấy hạt cơm trưa tui lại leo lên giường viết sách. Tờ giấy trên đầu gối, cây bút trong tay, tui vừa ngồi vừa nghĩ.

Chưa viết được một chữ lại một người quen bước đến :

- Anh làm gì vậy?

- tui viết tiểu thuyết.

- Ở đây viết không ra cái gì đâu. Anh này ngộ thật!... Anh vừa ở châu Âu lần nào chưa!

- Không, tui chưa bao giờ ra khỏi đất Thổ.

- Tiếc quá! Thế thì anh phải đi châu Âu mới được. Sống bên đó, được tận mắt nhìn thấy tất cả vẻ sinh hoạt là điều rất thú vị. Những chuyến đi ấy làm con người mở rộng lớn được tầm mắt. tui vừa đi hầu khắp châu Âu, có lẽ không nước nào không chen chân tới. Lâu nhất là thời (gian) kỳ tui ở Ðan Mạch, Hà Lan và Thụy Ðiển. Ở các nước đó tất cả người tôn trọng nhau hết sức. Thậm chí người ta không nói to để khỏi phiền người bên cạnh. Còn ở nước ta, anh xem! Muốn thủng hai màng nhĩ! Có lúc tui muốn chợp mắt một tý, muốn đọc hay viết một tý, tui thiếu gì chuyện phải làm hả anh, thế mà cũng không được. Ồn như chợ vỡ thế này anh không viết tiểu thuyết được đâu. Không thể viết được.

- Ồn như chợ vỡ tui cũng viết được. tui chỉ không viết được khi bị người khác lải nhải bên tai mà thôi.

- Bạn thân mến ơi, nhưng được yên tĩnh thì thích hơn biết mấy. Có phải thế không? Mà họ có quyền gì quấy rầy anh kia chứ? Họ có thể nói nhỏ được quá chứ lỵ. Ở Ðan Mạch, Thụy Ðiển, Hà Lan không có ai bất lịch sự như thế bao giờ. Dân chúng người ta tân tiến vì biết tôn trọng lẫn nhau.

Ông ta cứ nói lảm nhảm hết chuyện này chuyện khác, lôi ra trăm thứ dẫn dụ để minh họa cho trình độ lịch thiệp và giáo dục của người châu Âu.

tui cúi xuống mặt giấy và bắt đầu viết. Nói đúng hơn là tui làm ra bộ viết. Hẳn như thế là bất nhã nhưng tui còn biết làm sao khác được?

- Ðừng hoài công vô ích - Ông bạn lại nói - không viết được gì đâu. Viết thế anh chỉ làm hỏng đầu óc. Nước Thổ chứ có phải là châu Âu đâu. Anh có biết một người dân châu Âu thì phải thế nào không? Trước hết là phải có lòng tôn trọng người bên cạnh mình. Còn ta thì sao? Bạn thân mến của tui ơi, chính là vì lẽ đó mà chúng ta không nên người được đâu. Không, chẳng thể nào được!

Chắc ông ta chưa chịu kết thúc ngay, nhưng may quá, luật sư của ông ta đến cứu nguy cho tôi.

Sợ rằng lại có người khác đến ám, tui cùi gằm hẳn mặt xuống.

Vừa viết được hai dòng, lại một ông bạn cùng xà lim bước đến.

- Chúc anh thành công! - Ông ta nói.

- Thank bác - tui đáp.

Ông ta ngồi xuống giường tui nói :

- Còn xa chúng ta mới thành những người chân chính!...

tui không hé răng nửa lời hòng chặn đứng câu chuyện ngay từ khởi thủy.

- Anh vừa sang Mỹ bao giờ chưa? - Ông ta hỏi.

- Chưa.

- Tiếc thật! Anh được ở đó vài tháng anh sẽ hiểu ngay vì sao chúng ta lạc hậu thế này. Người Mỹ đâu có như ta, họ không thích tán gẫu. Bên họ có câu: “Time is money.” “Thời gian là trước bạc”. Người Mỹ chỉ đến với anh khi có việc. Họ nói vài câu cần thiết rồi đi làm chuyện khác. Còn nước Thổ ta thì sao? Cứ lấy chúng ta mà xem. Chúng ta đang làm gì? Tán dóc chứ sao. Tán hết ngày này qua tháng khác! Ở Mỹ như thế thì đừng có hòng. Chính vậy mà họ tân tiến.

tui thở dài liên tiếp, lòng thầm mong ông ta hiểu đánh giá là tui rất bận và ông ta đi đi cho rồi. Nhưng ông ta cứ tiếp tục khoa đại ngôn như chẳng hề hám chuyện gì cả.

Ðến giờ ăn tối. Trước khi cáo lui ông ta bảo :

- Chúng ta không thành người được. Ðúng thế. Cứ cái lối sa đà trò chuyện thế này thì chẳng có bao giờ nên người.

- Bác nói thật chí lý - tui đáp.

Khoắng vội cho xong bát cơm, tui quay về làm việc. Tiểu thuyết! Phải viết tiểu thuyết!

- Cái chính là phải lao động. Những chuyện khác là phụ - tui bỗng nghe có tiếng người nói.

Ngẩng đầu lên tui thấy một bạn cùng khám đứng cạnh.

- Theo anh thì sao? - Anh ta hỏi và ngồi xuống giường bên.

- Ai dám tranh luận chuyện đó? Lao động cần quá đi chứ - tui đáp.

- Bố mẹ tui giáo dục tui theo tinh thần nước Ðức...

tui giận đến tím ruột.

Còn anh bạn thì sôi nổi tiếp tục :

- tui tốt nghề trường Li-xê Ðức ở Istanbul rồi sang Ðức học đại học, sau đó tui ở lại làm chuyện bên ấy nhiều năm. Người Ðức chả có ai ăn không ngồi rồi cả. Còn bên ta thì thế nào? Cứ lấy tất cả những người trong khám này ra làm bằng mà xem. Không. Không, chúng ta không thể thành người được. Còn lâu chúng ta mới là những người chân chính!

tui hiểu ra: ban ngày người ta không cho tui viết tiểu thuyết. Cố viết, tui chỉ giết chết thần kinh của mình mà thôi. Bây giờ chỉ còn nước đợi đến đêm cho tất cả người đi ngủ cái đã.

Anh bạn không mời mà đến của tui lại thao thao về đất nước Ðức.

- Ở Ðức mà ngồi không ăn bám là điều sỉ nhục. Người Ðức dù bị số phận xua đuổi đến đâu đi nữa cũng không bao giờ chịu ngồi bó gối, thế nào họ cũng phải tìm được một chuyện gì đó mà làm. Một lẽ đương nhiên là không thể không lao động được. Còn đây là một dẫn chứng phản diện: chúng ta vừa nằm đây mấy tháng rồi, thử hỏi có ai làm gì hay không? Ðụng đến chuyện ấy là người ta lấy làm lạ: trong tù thì làm gì được! Một người trí thức nước Ðức sẽ không nói vậy. Ông ta sẽ ngồi viết hồi ký, viết báo, lo nghĩ công chuyện của mình hay đọc sách báo, tóm lại, ông ta không có chơi bời phí phạm. Còn chúng ta thì sao? Anh muốn nói gì thì nói, chúng ta không thể thành người được.

Ðến tận nửa đêm anh ta mới về. Bây giờ có thể làm chuyện được rồi. Không còn ai đến ngồi quấy phá và lên lớp cho tui về chuyện để lý do khiến chúng ta không nên người được.

Chao ôi, tui đã lầm to: lại có người đến. Người này dã lăn lộn nhiều năm bên Pháp. Ông ta khe khẽ thì thầm sợ phiền đến giấc ngủ tất cả người.Theo lời ông, người Pháp là người biết làm chuyện ra trò, nghỉ ngơi và vui chơi ra trò, dân tộc đó không bao giờ lẫn lộn thời (gian) gian làm chuyện với thời (gian) gian nghỉ ngơi. Rồi ông ta khuyên tui không nên làm chuyện quá nửa đêm như thế.

- Bây giờ anh đi ngủ ngay đi, sáng mai đầu óc tỉnh táo anh lại tiếp tục viết. Bên nước ta tất cả thứ cứ lùng chùng với nhau: lao động, nghỉ ngơi, giải trí, không cái gì ra cái gì cả. Lúc nghỉ thì mình làm việc, giờ làm chuyện mình lại muốn nghỉ. Ðấy cứ bảo tại sao chúng ta không biết làm chuyện cho có năng suất. Không bao giờ chúng ta thành người được đâu. Không bao giờ!

Lúc ông ta đi thì tui cũng không còn sức để viết được nữa. Hai mí mắt tui cứng lại. tui lăn ra ngủ vùi.

Sáng hôm sau tui dậy thật sớm, lúc chưa ai dậy, và lại bắt tay vào việc.

Có một người cùng khám mà tui rất kính nể vừa đi ngoài về.

Thấy tui ông ta bước lại.

- Mọi thứ ở bên Anh không có như ben ta - Ông nhận xét - Anh vừa ở bên Anh bao giờ chưa?

- Chưa ạ.

- Anh cứ hình dung như anh đang ở bên ấy và đang đi tàu. Người cùngphòng chốngvới anh suốt nửa ngày không thèm nói câu nào. Bên ta mà thế thì lại bảo: “Cái thằng kênh kiệu! Mặt lạnh như tiền!” Nhưng đó có phải tại người ta lạnh lùng và kênh kiệu đâu, đó là người rất có ý thức và rất tế nhị. Biết đâu anh không thích nói chuyện với người ta thì sao. Cơn cớ gì mà người ta làm phiền đến anh! Còn bên ta thì sao?... Anh ta có quen anh hay không, anh đang bận hay đang rỗi, mặc! Anh ta cứ mở miệng tán phét. Chính vì thế mà chúng ta chẳng bao giờ thành người được cả.

tui vò nát tờ giấy trên đầu gối, quẳng xuống gậm giường và nhét bút vào túi.

Thế là hết!... Thế là tiêu tan cái mộng tiểu thuyết của tôi. Phải, trong tù tui không viết được gì cả. Nhưng mà tù vừa mở ra cho tui một chân lý trăm ngàn lần quý hơn cuốn sách thai nghén kia. tui vừa hiểu ra vì sao chúng ta không thể thành người được.

Bây giờ chỉ cần một người nào đó đứng bên tui bảo rằng: “Không chúng ta không thể thành người được!...” thì lập tức tui giơ tay hô lớn

- tui biết lý do rồi!

tui trưởng thành hẳn lên.









 

chjl0ve_kaiz

New Member
Điệp viên OX-13





Y là điệp viên cỡ thượng thặng. Tên tuổi của y, ngay từ khi y còn sống, vừa được ghi vào lịch sử tình báo thế giới. Quãng năm dài hoạt động ở phương Ðông vừa cướp đi của y nhiều sức lực, nhưng không vì thế mà trông y mất vẻ điển trai rắn rỏi. Nhà nước đặt toàn bộ hy vọng vào người điệp viên OX-13 của mình, coi y là niềm tự hào của ngành tình báo quốc gia.

Một ngày nọ, OX-13 được phái sang Thổ Nhĩ Kỳ để thực hiện một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng.

Trước khi đi hoạt động ở một nước nào, công chuyện đầu tiên của OX-13, tất nhiên là phải học tiếng nói của nước ấy. Năng khiếu ngoại ngữ của y quả là có một không hai. Kinh nghiệm cho y thấy rằng, học ngoại ngữ tốt nhất là học trên giường, nên OX-13 quyết định cưới một người vợ bản xứ để trả thiện thêm tiếng Thổ của mình. Việc chọn một cô gái thích hợp đối với y không phải là điều khó khăn. Ngay cả cái điều kiện hóc búa mà bố mẹ vợ đưa ra, bắt chàng rể tương lai phải theo đạo Hồi, y cũng vượt qua một cách dễ dàng. Vốn là một người có tư tưởng dễ dãi và bình đẳng đối với các vấn đề tôn giáo, nên y vừa dũng cảm chịu đựng một phẫu thuật khá nguy hiểm cho một người ở vào lứa tuổi y, để đang là Risa Vêlinh, y có thể biến thành Rêsát Vêli.

Chỉ sau chưa đầy hai, ba tháng, tiếng Thổ của OX-13 vừa có thể coi là tuyệt cú cú hảo.

Vậy là cuối cùng, y vừa tự thiết lập xong cho mình một vị trí vững chắc trên đất nước xa lạ và làm ra (tạo) được những điều kiện hết sức thuận lợi để trả thành sứ mạng mà người ta giao phó cho y ở xứ sở này. Nhưng chính vào lúc đó, trong cuộc đời y vừa xảy ra một biến cố bất ngờ. Chắc các bạn cũng biết, nhiều khi một môi trường mới mẻ hay một trả cảnh xa lạ có thể làm cho con người bỗng thay đổi hẳn. Ðối với OX-13 cũng vậy. Việc chuyển theo đạo Hồi, chuyện cưới vợ Thổ, về chuyện chung sống với những người Thổ làm cho trái tim đá, ý chí sắt và thần kinh thép của y đột nhiên trở thành mềm yếu. Chuyện đó thoạt nghe có vẻ khó tin, nhưng sự thực lại trả toàn đúng như vậy. Có thể, cái bầu không khí ấm áp chân thành bao bọc xung quanh Rêsát Vêli vừa làm cho lòng y trở nên hiền dịu. Trách nhiệm của nghề tình báo bắt đầu làm y thấy nặng nề khó chịu: y cảm giác chán ghét cái công chuyện lén lút chống lại những con người dễ thương và tốt bụng ấy. Y tự nhủ sẽ đến đầu thú tại cơ quan phản gián Thổ Nhĩ Kỳ, sẽ thú nhận hết tất cả chuyện với họ, rồi muốn ra sao thì ra!... Y vừa chuẩn bị tất cả với ước vọng duy nhất là làm sao thoát khỏi cái trò chơi mà y đang dính vào, để được sống yên ổn hạnh phúc trong cái tổ ấm gia đình, bên cạnh người vợ yêu và những con người trung thực đáng mến.

Thế là y quyết định đi thực hiện ý định đó.



Rêsát Vêli bước vào một tòa nhà lớn. Chẳng hề đắn đo, y gõ cửa cănphòng chốngđầu tiên mà y gặp, rồi đứng ngay tại ngưỡng cửa, y báo ngay cho một viên chức ở đó biết rằng: Y, Rêsát Vêli, hay Risa Vêlinh, hay OX-13, chính là gián điệp của nước ấy nước ấy, và được phái sang đây để tiến hành một nhiệm vụ đặc biệt.

Danh tiếng của đại cường quốc quả là có một tác động kỳ lạ đối với người viên chức nọ: vừa nghe thấy cái tên ấy, anh ta không còn chú ý gì đến hai tiếng “gián điệp” nữa, mà vội vàng đứng phắt dậy, cúi rạp người trước Rêsát Vêli, kính cẩn tự giới thiệu tên tuổi và chức vụ của mình.

- Rất hân hạnh được quen biết ngài! Xin mời ngài ngồi! - Anh ta nhắc lại với giọng đầy xúc động.

Không! Rêsát Vêli quả là không nhầm khi nghĩ về cái dân tộc đáng quý này! Ngay cả với một tên gián điệp họ vẫn tiếp đón với nụ cười niềm nở! Y rút thuốc lá ra mời người viên chức, đoạn ngồi xuống ghế và bắt đầu nói :

- tui là điệp viên OX-13. tui được phái sang đây với mật (an ninh) danh là Risa...

- Thưa, chúng tui có thể giúp gì cho ngàỉ - người viên chức nhã nhặn ngắt lời y - Ngài cần gì ở chúng tui ạ?

Rêsát Vêli chưng hửng :

- Nhưng tui là... gián điệp mà! - y do dự kéo dài giọng.

- À, tốt lắm!... - nhân viên nọ suy nghĩ - Chắc ngài muốn làm chuyện cho chúng tui phải không ạ? - rồi không đợi trả lời, anh ta nở một nụ cười đon đả nói tiếp - Vậy xin mời ngài lên tầng 2,phòng chống228 ạ!

Tạiphòng chốngsố 228, người ta nghe Rêsát Vêli một cách hết sức chăm chú, rồi cuối cùng hỏi y :

- Thế nhiệm vụ của ngài là gì?

- Ðặt mìn gây các vụ nổ ngầm - Rêsát Vêli đáp.

- Bộ phận của chúng tui hiện nay vừa được bổ sung đầy đủ. Trong thời (gian) gian tới chắc cũng chưa có chỗ khuyết. Nên rất tiếc chúng tui không thể bố trí cho ngài chuyện gì được!

Nhà tình báo nổi tiếng, vốn là người hết sức bình tĩnh, nghe thấy thế bỗng cảm giác thần kinh của mình không còn được bình thường nữa. Y nói như hét :

- Nhưng tui đã nói với các ngài rằng tui là một điệp viên! Một tên gián điệp!...

- Tuyệt cú cú lắm! Nhưng ngài muốn gì ở chúng tôi? Ngài muốn chúng tui che chở cho ngài ư?

- Nhưng tui là một điệp viên nước ngoài! Chả lẽ ở đây không có ai giải quyết vấn đề của tui cả hay sao? - rồi bằng một giọng run run, Rêsát Vêli nói tiếp - tui sẽ khai hết tất cả các điều bí mật!

- Á, à! Thế thì lại là chuyện khác! Nếu vậy xin ngài quá bộ leo lên một tầng nữa, sau đó rẽ tay phải, rồi đi theo hành lang đến cănphòng chốngcuối cùng. Ở đó người ta phụ trách các vấn đề nổ mìn.

Rêsát Vêli leo lên tầng 3.

- Thưa ngài, tui là nhân viên tình báo...

Viên quan chức ngồi ở bàn thậm chí không thèm ngẩng đầu lên.

- Ai bảo ông đến đây?

- Không ai cả, tui tự đến...

Viên quan chức tức giận rời mắt khỏi đống giấy tờ :

- tui hỏi, ai chỉ cho ông đếnphòng chốngtôi?

- Ởphòng chống228 người ta cho tui biết là ngài phụ trách vấn đề nổ mìn.

- Vâng, đúng rồi! Nhưng nổ mìn cũng có nhiều cách khác nhau.

- tui chuyên về phá cầu.

- Ðấy! Ông thấy chưa. Nếu thế thì lại không thuộc bộ phận chúng tôi! Mìn là mìn, mà cầu là cầu chứ!...

- Thế thì tui phải đến gặp ai ạ?

- Gặp ai ấy à? - viên quan chức suy nghĩ một lát rồi đáp - à, phải rồi! ông hãy lên tầng 4, ở đó họ sẽ chỉ dẫn cho!

Khoảng 10 phút sau, Rêsát Vêli vừa ngồi trong một cănphòng chốngkhác và đang trình bày. Người ta nghe y rất chăm chú rồi hỏi y :

- Ngài chuyên làm nổ các loại cầu gì?

Nghe hỏi thế Rêsát Vêli cảm giác như chính mình cũng sắp bị nổ tung.

- Sao? Chả lẽ các ngài không biết có những loại cầu gì nữa hay sao?

- Chúng tui biết. Cầu thì có cầu đá, cầu bê tông, cầu gỗ... Nhưng mỗi loại cầu chúng tui có bộ phận nghiên cứu riêng.

- Nếu vậy, tui chuyên về cầu bê tông - Rêsát Vêli thú nhận.

- Nếu thế thì ngài đến nhầm chỗ rồi! Ngài phải lên tầng năm,phòng chốngsố 501 cơ! Ở đó họ phụ trách vấn đề của ngài.

Sau khi nghe Rêsát Vêli trình bày, viên quan chứcphòng chống501 suy nghĩ một lát rồi cầm lấy máy điện thoại.

- Bẩm ngài!... Có một người đến chỗ chúng tui tự xưng là điệp viên và khai ra biết làm nổ các cầu bê tông. Xin ngài cho biết phải xử trí với anh ta thế nào ạ? Dạ... dạ! Bẩm vâng ạ!

Và với vẻ hài lòng, anh ta quay sang Rêsát Vêli, lúc này bỗng thấy hy vọng là chuyện của mình sẽ được giải quyết

- Tốt nhất là ngài hãy làm theo lời khuyên của cấp trên chúng tui và hãy tìm gặp ngài Hasim.

Ngài Hasim chăm chú lắng nghe từ đầu đến cuối câu chuyện của Rêsát Vêli rồi hỏi :

- Xin lỗi, ngài có thể cho biết ngài phá nổ cầu bằng phương pháp gì không ạ?

Rêsát Vêli nóng bừng mặt :

- Nhưng... bằng phương pháp nào thì các ngài cần gì phải biết?

- Xin ngài hãy bình tĩnh...! E... hèm! Ngài bảo ngài là một điệp viên mà ngài lại dễ xúc động quá!... E... hèm... Chắc ngài cũng biết rằng ở chỗ chúng tui người nào thần kinh không vững thì không thể làm chuyện được... Tại sao tui hỏi ngài như thế? Là vì đặt thuốc nổ có dây cháy chậm rồi châm ngòi là một chuyện, còn gài mìn giờ, hay mìn điều khiển theo cự ly lại là chuyện khác! Mỗi cách chúng tui có bộ phận phụ trách riêng...

- tui có thể sử dụng cả hai cách! - Rêsát Vêli cáu tiết quát - tui là điệp viên! Các ngài có hiểu không? Một điệp viên ngoại hạng! tui biết làm tất cả! Các ngài rõ chưa?

- Nếu vậy, đó không phải vấn đề chúng tui phụ trách! Xin mời ngài xuống tầng một,phòng chốngthứ ba, bên phải cơ ạ!

Tuy vừa gần như tuyệt cú cú vọng, nhưng Rêsát Vêli vẫn kể lại từ đầu đến cuối. Giọng y vừa uể oải, chán nản. Viüacruan chức cửaphòng chốngba, bên phải, tầng một, vừa nghe y nói, vừa đổi chân luôn luôn, ra chừng khó chịu. Y vừa đứng lên mặc áo măng tô, chốc chốc lại liếc nhìn đồng hồ.

- Tốt lắm, ông bạn thân mến ạ! Mọi chuyện rõ cả rồi. Nhưng sao ông đến muộn quá vậy? Giờ làm chuyện hết mất rồi! Vănphòng chốngđã đóng cửa. Mà chuyện của ông lại rất quan trọng và đòi hỏi mất nhiều thời (gian) gian!...

- Nhưng có phải lỗi tại tui đâu! Suốt ngày tui cứ bị người ta đuổi đi hếtphòng chốngnày đếnphòng chốngkhác.

- Ồ, ông bạn ạ! tui rất hiểu ông. Nhưng ông cũng phải hiểu cho tui chứ! Là hết giờ làm chuyện mất rồi!

Rêsát Vêli há hốc mồm. Nhưng viên quan chức vừa bước ra phía cửa.

- Thôi, xin lỗi ông bạn! Ngày mai thế nào ông cũng đến nhé! Nhưng nhớ đến sớm một chút đấy!

Rêsát Vêli, tức Risa Vêlinh, cũng tức điệp viên trứ danh OX-13, vừa mệt mỏi lê bước trên phố vừa miên man suy nghĩ: “Thế là rút cuộc ta không thoát khỏi cái trò chơi quái gở này... Lại phải tiếp tục cái công chuyện quái gở... Và hơn nữa, lại ở cái đất nước cũng hết sức quái gở này!...”









 

xunsa_xd

New Member

Phải ho lao mới được



Chúng tui lấy nhau, sự thể là như vậy... Con người khi lấy vợ rồi thì phải làm gì? Thì anh lấy vợ làm gì, một khi còn chưa biết điều gì đáng phải làm? Bây giờ thì tui biết rõ lắm rồi! Người ta lấy vợ xong, chuyện đầu tiên là phải có than cho mùa đông. tui bèn đi hỏi bạn bè xem làm chuyện đó thế nào?

- Ô hô! - Họ nói - Anh đừng hòng mua được.

- Sao lại thế?

- Anh không thể nào mua được chứ sao nữa!

- Nhưng tui có quyền cơ mà! Ôi, Ala!

Tất cả những kẻ nào bảo tôi: “Cậu đừng hòng mua than” đều được tui lên lớp cho một bài ra trò về quyền công dân!

tui đến nhà trưởng phố. Sau khi chờ mười phút cho ông lão dứt cơn ho, tui hỏi :

- Cụ ủng hộ phe nào ạ?

- Phe dân chủ! - Ông cụ làu nhàu nói.

- Hay lắm! Cháu cũng ủng hộ phe dân chủ - tui đáp - Cháu ở phố nọ, số nhà nọ, cháu muốn mua than. Cụ giúp chúng cháu với.

- Thế là từ trước đến nay anh mua than ở đâu?

- Cháu vừa mua than bao giờ đâu. Ðây là lần đầu tiên cháu định mua đấy.

- Thế đầu đuôi làm sao mà anh lại đến đây?

- Thưa cụ, cháu vừa mới cưới vợ. Trước kia thì cháu thế nào cũng xong. Bây giờ cháu muốn mua than để đôi chim trong tổ uyên ương chúng cháu được sưởi ấm vào mùa đông.

- Anh mang giấy chứng nhận nơi ở cũ của anh và của vợ anh đến đây.

Thế là các điện khẩn, điện hỏa tốc, điện kèm cước phí trả lời bay đi tứ tung, và một tháng rưỡi sau chúng tui nhận được giấy chứng thực. Lần này trưởng phố bảo :

- Anh phải viết đơn cho Sở phân phối than.

Chúng tui nộp đơn. Họ đưa cho tờ giấy bảo là để trưởng phố điền vào. Nào ai bảo là tui không mua được than nào!

Chúng tui cầm tờ giấy. Trưởng phố điền vào. Chúng tui lại mang đến Sở phân phối than. Cần một chữ ký! Thế là xo...o...ong! Giờ thì cứ để họ xem tui có mua được than hay không? Chữ ký có đây rồi. Phải, thưa các ngài, dân ta là cứ muốn tất cả thứ kề sẵn miệng cơ! Bảo là “cho tui một tấn than” rồi muốn người ta để than cho ngay lập tức cơ! Như thế mà được à! Ðây có phải quầy bán thức ăn đâu! Ðến quầy bán thức ăn cũng phải xếp hàng đợi đến lượt nữa là! Ở đây lại có ngần ấy công thức, họ phải có chuyện gì mà làm chớ. Lại cần thêm một chữ ký nữa...

Khi vừa lấy đủ các chữ ký, viên công chức ngồi tận bàn ngoài cũng mỉm cười hỏi :

- Than à?

- Vâng! Than ạ! - tui xác nhận.

Nụ cười của viên chức công càng nở thêm ra :

- Ra anh muốn mua than đấy.

tui vốn ưa những người vui tính. Và tui đáp, cố mỉm cười như viên công chức niềm nở vui tính này :

- Vâng! Than! Ông xem, tui muốn mua ít than ấy mà!

Không biết các bạn có để ý thấy hầu hết các công chức của chúng ta đều có bộ mặt nhăn nhó không? Thế mà viên công chức này thì lại vui tính cười sằng sặc. Ông ta cười tướng lên:

- Thế nghĩa là than đấy!

tui cũng cười to gần như ông ta :

- Than, hẳn rồi! Than ấy mà!

Viên công chức lại càng cười khỏe. Ông ta cười hô hố, còn tui thì sao, chả lẽ tui đứng nhìn à? Ừ thì tui cũng cười. Khi người bạn đang tiếp chuyện mình cười, lẽ nào anh lại nhăn nhó. Ông ta cười, và tui cũng cười. Cứ thả sức cho hai ta cùng vui.

- Thế ra, hahaha! Là than đấy! Ha ha! Ha ha!...

Một khi người ta vừa đến cơn cười thì khó lòng mà nín lại được. tui càng cười to hơn :

- Than!... Ha ha ha ha!...

Chúng tui ôm bụng mà cười đến chảy cả nước mắt. Chỉ thêm tí nữa là tui ngất đi mất.

- Ra là than à? Ha ha ha ha!...

- Hahaha!... Than, hẳn đi rồi!...

- Thế thì không có.

- Sa...a...ao! Không có? Thế sao ông lại cười?

- Không có, thế nên tui mới cười. Hahahaha!...

Bây giờ thì đáng lẽ tui không còn cười được nữa, mà phải khóc kia, nhưng tui không kìm lại được. Chúng tui cười vô hồi kỳ trận, cười không tự chủ được nữa. Nhờ giời là họ đặt tui ngồi xuống ghế, cho cốc nước, bóp má mấy cái và cho ngửi nước đái quỉ. Khi hơi hồi lại, tui hỏi :

- Thế là chúng tui không mua than được à?

- Ðến ngay bán cho các khách hàng quen chúng tui cũng vừa chật vật lắm rồi, huống chi ông là người mới. Ông thì chẳng có đâu.

- Ðược rồi, nhưng lúc trời đông mưa rét thì tổ uyên ương của chúng tui sẽ ra sao?

- Ông có thể mua than với một điều kiện.

- Ðiều kiện gì?

- Nếu trong nhà ông có ai bị tê thấp, ông mang giấy chứng nhận lại đây, chúng tui sẽ bán cho ông một phần tư tấn.

- Nhà ta có ai bị tê thấp không? - tui gào lên từ ngưỡng cửa.

Bà mẹ vợ vội đáp :

- Lạy giời, tìm được thuốc rồi à? Ðã mười năm nay mẹ đến khổ vì bệnh tê thấp. Chỉ có giời biết được là thế nào!

Bà mẹ vợ vừa mở miệng thì còn đủ tất cả chuyện... Vậy mà cũng có khi bệnh tê thấp của bà mẹ vợ lại được chuyện đấy. Và chúng tui lấy được giấy chứng nhận.

Chà, nếu lần này mà tui mua được than thì không hiểu tui sẽ làm gì với những kẻ bảo tôi: “Cậu không mua nổi than đâu!” Hừ, những tương tự bi quan! Ðang có người ốm thì ai lại đi bán than cho người khỏe cơ chứ. Cứ bị tê thấp đi, người ta sẽ bán than cho.

tui mang giấy chứng nhận đến.

- Giấy này không hợp lệ.

Hẳn họ nghĩ là giấy làm giả mạo.

Kể ra thì họ cũng có lý. Bây giờ thiếu gì các kỹ sư ẩm muội, các bạn học giả danh, các thầy kiện cãi láo, các bạn sĩ giả hiệu: họ làm sao mà biết được là bác sĩ thật hay giả vừa cấp giấy chứng nhận. Vì thế nên họ đòi giấy chứng nhận của hội đồng y khoa cấp. Không lẽ cả hội đồng là giả hiệu được!

Thủ tục xin giấy chứng nhận của hội đồng y khoa xem ra còn rắc rối hơn chuyện mua than nhiều!

Ðến đây thì đừng có tiếc công, cứ cậy cục đến cùng! Một tháng sau, tui lấy được giấy chứng nhận của hội đồng.

tui tóm tờ giấy và bây giờ mới yên lòng.

tui đem giấy cho họ.

- Rất đáng tiếc là... không được!

- Sao? Giấy chứng nhận đây mà!

- Giấy chứng nhận của ông là giấy chứng nhận có bệnh tê thấp.

- Thì chính các ông đòi giấy chứng nhận bị tê thấp mà. Giá các Ông có đòi giấy chứng nhận mắc bệnh ung thư thì chúng tui cũng đem đến được.

- Trước kia chúng tui có bán than cho người bị tê thấp, nhưng nay than lại ít hơn trước nên chúng tui không bán cho người bị tê thấp nữa.

- Nguy to rồi!... Thế chúng tui lấy gì mà sưởi tổ ấm uyên ương?

- Nhà ông có ai bị lao không?

- Không!

- Không thì chúng tui biết làm thế nào? Muốn mua than thì phải bị ho lao mới được.

Hừ, tui ghét những tương tự bi quan ấy làm sao! Họ bảo: “Người ta không bán than đâu”. Họ chẳng bán cho người bị ho lao đấy là gì?

các bạn cứ xem, nhờ giời, chúng tui còn khỏe mạnh sống qua được mùa đông này, đến sang năm tất cả nhà sẽ được mua than cho mà xem. Vì nói gì thì nói, chứ cứ sống ở chỗ lạnh lẽo không có gì sưởi ấm thì chắc chắn là được ho lao rồi.

Tất nhiên là nếu đằng nào cũng phải bán than cho những người bị ho lao thì giá cứ bán ngay cho họ trước khi mắc bệnh có phải tốt hơn không... Không, như thế không được.

Mà nếu bao giờ chúng tui bị ho lao, có khi họ lại sẽ bảo: “Muốn mua than thì trước hết anh phải chết đi đã. Chúng tui chỉ bán than để đun nước lau rửa cho người chết thôi.”

Thế mà có kẻ dám bảo: “Người ta không bán than đấy”. Ðã có sự qui định, có luật lệ đặt ra để thi hành. Nếu anh không chết đi thì họ làm sao mà bán than cho anh được? Chuyến này tui mua được than, tui sẽ chở đến và vãi ra trước mũi những kẻ nào bảo “Cậu đừng hòng mua than” cho mà xem.









 

lephuong_rong

New Member
Xót trước dân





- Khách sạn gì mà xây lâu đến thế kia chứ!

- Chứ gì, ngần ấy thời (gian) gian thì xây được cả thành phố đâu phải chỉ một khách sạn.

- Sao lại lâu thế nhỉ? Hay là ta chọn nhầm cách thầu khoán.

- Khách sạn này cũng có mấy nhà thầu nước ngoài xin chuyện không hiểu sao các ông ấy lại ưng nhà này: cũng chẳng phải vì nhà ấy đòi ít, cũng chẳng phải họ làm tốt các hợp đồng khác cũng chẳng phải vì họ chiều mình. Sự thể ra sao tui phải quan sát vừa rồi mới dám nói.

Hóa ra là quan trên cũng nhiều mà cung cách cũng lắm: nào mở tiệc ăn mừng, nào cắt băng khởi công, nào quan lớn tự tay đặt viên gạch đầu lấy mẩu. Rồi chiêu đãi dưới trên, ăn một miếng, nhớ một đời, rồi báo chí rùm beng, bài to, ảnh lớn.

Ít lâu sau hàng rào khách sạn tương lai mọc lên.

Một hôm có ba chiếc xe con đò cạnh công trường. Nào phải ai xa lạ, chính là các vị quan chức nước nhà bước xuống xem xét bề thế công trường.

- Sao hành lang lại hẹp thế nhỉ? - Ngài trưởng nhóm hỏi.

- Bẩm quan, cái đồ án thiết kế nó vậy - Người kỹ sư đáp - hành lang vừa rộng đến 5 mét...

- Chắc ông cho rằng chúng tui không thấy cái khách sạn nào bao giờ hẳn? tui vừa ở các ô-ten ngoại quốc, hành lang của họ còn rộng lớn nữa. Thôi được, cứ cho rằng hành lang theo thiết kết đi, nhưng số lượng hành lang ít quá... Khách sạn mà có mấy cái hành lang như thế. Không làm thì thôi, vừa làm thì làm ra làm. Tiền dân, trước nước! Phải biết xót chứ...

Ông kỹ sư ngậm tăm.

- Còn các ông nghĩ thế nào? Khách sạn lớn mà có mấy hành lang như thế chẳng phải là ít hay sao? - Quan lớn hỏi bầy tùy tùng.

- Hơi ít, thưa ngài.

- Dạ bẩm ít ạ.

- Ít quá chứ ạ...

Và thế là hợp đồng với nhà thầu ấy bị hủy.

Trong lúc chờ giám định phân xử, bản thiết kế được thay đổi: hành lang nhiều hơn, rộng lớn hơn.

Việc thi công đồ án mới đang triển khai thì một bữa kia lại có mấy chiếc xe con dừng bánh bên đường. Lại có mấy nhà đương chức đến nom việc. Ði đầu là một ngài bệ vệ nhất. Vừa thấy cái lỗ cửa ra vào, ngài hỏi liền :

- Chỗ này làm gì đấỷ

- Dạ,phòng chốngkhách đấy ạ - Đại diện hãng thầu mới đáp.

- Phòng khách? Phòng khách quái gì mà thế này?

- Dạ bẩm, chuyện chưa xong mai kia chúng con lát đá, sơn tường, kẻ hoa...

- Hiểu rồi, tức nghĩa làphòng chốngkhách chứ gì... Nhưng ta hỏi,phòng chốngkhách có phải là nơi đấu ngựa không? Làm gì cóphòng chốngkhách như bãi quần ngựa ấy? Tiền dân, nghĩ mà xót ruột...

- Bẩm ngài, chúng con làm theo thiết kế...

- Lạy chúa, cái mà các anh gọi là thiết kế, nó không phải là bài kinh Côran bất di bất dịch. Phải thay thiết kế, phải thay đi mới được.

Nhà thầu chịu nghe không dám ho he. Theo ý mới, cácphòng chốngkhách đều được thu nhỏ.

Công chuyện đang chạy thì một hôm lại có mấy quan phóng xe con đến xem khách sạn. Ngài đương quyền dẫn đầu đội khảo hạch nói chung là vui, nhưng lúc ra đến cửa, ngài mới nhìn lên trần băn khoăn hỏi :

- Thế không làm mái vòm, trần cuốn à?

Câu hỏi làm nhà kiến trúc sư trẻ tuổi bủn rủn đầu gối, anh ta chết lặng đi mất mấy phút, bấy giờ mới đủ sức định thần để hỏi lại :

- Xin ngài thứ lỗi, con không hiểu, ngài định nói mái vòm, trần cuốn thế nào ạ?...

- Ðó mới là kiến trúc lối Thổ. Những người vào khách sạn sẽ là khách nước ngoài, vì thế khách sạn phải theo lối Thổ ta... Anh xem nhà cửa nước Thổ bao giờ lại không có mái vòm, trần cuốn.

- Nhưng thưa ngài, trong bản thiết kế...

- Thiết kế là cái gì? Nhờ nhà thầu nước ngoài làm thiết kế bao giờ chả vậy. Họ biết gì về kiến trúc và tâm hồn ta nào?

Các quan tuỳ tùng cúi cả đầu xuống.

- Nhà thế này thì ai cần? Nhất thiết phải có mái vòm, trần cuốn. Trông thấy trước dân, trước nước mà xót cả ruột!

Làm mái vòm trần cuốn cho cả nhà thì tổn phí quá, nhà thầu chỉ dám theo tinh thần dân tộc ở một đôi chỗ dễ nhất.

Công chuyện xây cất vừa đến lúc hòm hòm thì giới quyền chức lại theo bánh xe con lăn đến. Ngài quyền cao đi trước buồn rầu nhận xét :

- Ùi dà! Sao lại làm nhiều hành lang thế nhỉ... Phòng thì ít, lối lại nhiều. Ở đây dễ đến lạc như vào rừng... Thật xót trước dân!...

Làm đi làm lại mãi chẳng còn biết thời (gian) hạn ra sao? Công chuyện mịt mùng không dứt. Báo chí vừa bắt đầu đưa đẩy. Muốn nhanh nhà thầu lại phải đổi kiểu mái. Nhưng những cuộc tranh luận bất đồng lại nổi dậy. Dùng ngói gì bây giờ? Ngói bản xứ hay ngói Marseilles. Cuối cùng phương án ngói bị đổ và mái được làm bằng bê-tông thường.

Công chuyện gần xong thì bỗng bụi đường tung dưới bánh xe con.

- Thế gạch men đâu? Khách sạn Thổ mà không có gạch men là thế nào? - Các quan khách kinh ngạc hỏi.

Sau đó tất cả người vàophòng chốngkhách. Phòng khách không có một cây cột. Ngài trưởng đoàn bảo :

- Ở đây không có cột, mà cột lại cần. Cầu trời cho mái đừng sập...

- Bẩm ngài an tâm, không sập được đâu ạ, chúng con vừa tính.

- Ðã tính? Ðến lúc nó sập thì đem tính của các anh ra mà trừ à?

Ngài quay lại đám sau lưng :

- Thế nào, các ông, trần sập được chứ?

- Bẩm, được ạ...

- Thế nào cũng đổ, nặng thế kia cơ mà? Lại còn đồ đạc trên ấy nữa... Rồi người vào lại đông... Thế nào cũng đổ.

- Nổ như bm ấy chứ...

- Bao nhiêu là trước vứt qua cửa sổ... Thật xót trước nhà nước... Các anh nghe không? Ai cũng bảo đổ... Thêm mấy cái cột có phải lại lạ kiểu...

Chiều ý mới, cácphòng chốngkhách vừa có thêm cột.

- Một ngài dẫn đầu một đoàn lãnh đạo khác vừa biến dãy cột vuông thành gạch vụn. Trong các sách giáo khoa thư ngài học hồi bé, ngài có thấy những bức ảnh đền đài Hy Lạp toàn cột tròn cả, chứ không lai căng thế này. Tiền nhà nước vứt ra cửa sổ thật là xót ruột.

- Bẩm quan, dễ như trở bàn tay thôi, chúng con sẽ có cột tròn.

Ðến lúc tường ngoài vừa chạm trổ hoa văn thì một quan lớn đến thăm, trách cứ :

- Những công trình hiện đại người ta dựng mặt trước bằng kính chứ!

Cuối cùng rồi cũng đến lúc tất cả việc coi là xong xuôi. Chỉ còn một chuyện cuối cùng. Một ngài quan khác nhận xét rằng cầu thang dốc quá, người đứng tuổi lên có phần mệt.

- Bẩm quan, còn thang máy. Vị nào trọng tuổi thì có thang máy.

- Nếu vậy thì xây cầu thang làm gì? Các anh chả biết xót trước quốc gia! Cầu thang cũng phải có ích chứ?

Sửa xong cầu thang, một nhà kiến trúc sư nổi tiếng nước ngoài đến thăm :

- Một kiến trúc trứ tác! Xứng đáng làm đại bản doanh Liên hiệp quốc!

Gạch men mặt trước và trên tường, mấy hành lang, mái vòm, trần cuốn, chấn song sắt hình hoa kim hương, mái nhà có ô văng, những thứ đó trả toàn theo tinh thần Thổ Nhĩ Kỳ. Ngược lại chóp mái lại theo đúng phong điệu Bắc Âu. Những cầu vồngphòng chốngkhách mượn lối cung đình Thổ. Phòng khách chính tương tự lối đại sảnh, thậm chí còn lớn hơn những đại sảnh Athens. Rồi lại còn những mẫu mực xuất sắc của lối kiến trúc Ý... Nhà tắm, nhà vệ sinh theo kiểu Mỹ. Rồi lối xây Ấn Ðộ, đường nét Trung Hoa... Tất cả cùng nhau chen vai thích cánh.

- Tuyệt! - Nhà đại kiến trúc ngoại bang thốt lên - làm sao các ông có thể đưa nổi tất cả lối kiến trúc vào một lâu đài thế này.

- Chúng tui xây đi xây lại cái trứ tác này suốt chín năm đấy! Mà lại còn tằn tiện được bao nhiêu trước dân! - Ông chủ nhiệm công trình tự hào đáp lại.









 

Wat

New Member
Cả một ổ





Tại bến tàu ở Kađưkây một người phụ nữ trẻ tuổi đang kêu la :

- Ối giời đất ơi! Cái ví của tôi, cái ví của tôi...! Bắt lấy nó!

Ðám đông nhốn nháo lên. Thằng ma cà bông đi chân đất chạy trên cầu tàu, nhảy từng ba bậc một. Người phụ nữ trẻ trung xinh đẹp van nài những người đứng bên cạnh :

- Ðuổi nó hộ tui với! Tóm lấy nó!

Thằng ăn cắp vừa chuồn mất. Năm phút trôi qua. Bỗng một viên cảnh binh trẻ tuổi hiện ra. Tay viên cảnh binh đặt trên vai thằng ăn cắp vừa xoáy chiếc ví.

- Ví của ai đây?

Chiếc ví màu đen, to, bóng loáng. Người phụ nữ trẻ trung xinh đẹp vui sướng vùng ra khỏi đám đông chạy bổ đến bên người cảnh binh.

- Của tôi! Chà, đội ơn ông quá!

Thằng ăn cắp đi chân đất, cởi trần, trên người không có chỗ nào mà túm được cả. Viên cảnh binh luồn tay vào nắm lấy mớ tóc dài giữ cho hắn khỏi chạy mất. Thân hình bẩn thỉu của thằng ăn cắp lộ ra từ những chỗ thủng ở chiếc quần lính cũ giờ vừa biến thành mớ giẻ rách.

Viên cảnh binh trẻ tuổi bảo người phụ nữ :

- Mời bà theo tui về bót.

- Ðể làm gì? Ví này là của tui mà! Ai cũng trông thấy thằng cha này giật ví ở tay tôị

- Phải ghi lời khai của bà để trình tòa.

Họ đi về bót, viên cảnh binh và thằng kẻ cắp đi trước, người đàn bà theo sau. Nghe người phụ nữ khai xong, viên cảnh sát trưởng kinh tởm nhìn thằng ăn cắp người nồng nặc mùi súc vật chết :

- Thằng kia, mày không biết xẩu hổ à? Khỏe như con lừa ấy! Giá đi làm ăn gì có phải hơn không!...

Thằng ăn cắp thong thả ngẩng đầu lên :

- Thế còn những kẻ khác làm nghề gì? - Nó nói.

- Câm ngay!

Viên cảnh sát trưởng hỏi người phụ nữ trẻ :

- Hanưm Ephendi, trong ví của bà có những gì?

- Tiền, sáp môi, chiếc gương, hộp phấn...

- Có bao nhiêu tiền?

Người phụ nữ nín lặng. Viên cảnh sát trưởng thò tay định cầm chiếc ví nằm trên bàn, nhưng người phụ nữ ngăn lại :

- Xin ông đừng mở ra! Trong ví tui có... thôi, ông để tui mở lấy.

Song viên cảnh sát trưởng vừa cầm lấy chiếc ví và dốc ra tất cả thứ bên trong: hộp sáp môi, chiếc gương, hộp phấn, ít trước lẻ và... 200 đồng đôla.

- Bà lấy trước đôla này ở đâu ra? - Viên cảnh sát trưởng hỏi.

- tui không thưa kiện gì người này cả - Người phụ nữ chỉ tay vào tên ăn cắp nói vội - tui chỉ yêu cầu cho tui xin lại chiếc ví, tui về!

- tui đang hỏi về số đôla này.

- Lạy Trời, mà thôi, tui cũng chẳng cần chiếc ví nữa. Cứ để lại chỗ các ông cũng được. tui đi về đây.

- Bà không về được! Bà lấy đôla ở đâu ra?

Người phụ nữ cúi mặt xuống :

- Madam Eleni mới đưa cho tui sáng nay.

Thằng ăn cắp ngẩng đầu lên ngó viên cảnh sát trưởng và cười khẩy.

- Thế Madam Eleni này ở đâu?

Người phụ nữ thì thầm tiết lộ địa chỉ.

Thế là cảnh sát trưởng cảnh binh, thằng kẻ cắp và người phụ nữ lên xe hơi của sở cảnh sát đi đến nhà madam Eleni. Ngay trong gianphòng chốngđầu tiên họ chạm trán phải một cặp đang ở trong tư thế không lấy gì làm tao nhã cho lắm. Trong khắp sáu căn buồng, viên cảnh sát trưởng bước chân vào bất kỳ chỗ nào cũng đều thấy những cặp như vậy cả.

Cảnh sát trưởng xông tới madam Eleni :

- A, chính mụ là chủ nhà chứa. Chúng ta vừa hoài công tìm kiếm mụ Eleni suốt sáu tháng nay đây! Mụ lấy đâu ra số trước đôla này?

- Có một khách chơi là Rida trả cho tôi.

Những người đàn ông vừa bị bắt gặp trong cảnh bậy bạ ấy được thả ra, vì họ la đàn ông. Còn đàn bà thì vì không phải là đàn ông nên bị đưa đến nhà thương ở Ahưcapư để khám bệnh. Sau đó viên cảnh sát trưởng, thằng ăn cắp, người phụ nữ xinh đẹp và madam Eleni lại đi xe hơi của sở cảnh sát đến nhà Rida. Tại nhà Rida, trên tầng thứ 7, đang tiến hành xây dựng.

- Các người làm gì ở đây?

- Có gì đâu!

- Có gì đâu à?! Thế công nhân với những người coi chuyện này là cái gì? Nghĩa là các người vừa xây nhà phạm pháp!

Thằng ăn cắp ngẩng đầu lên nhìn viên cảnh sát trưởng và lại cười khẩy. Sau khi vừa lập biên bản về chuyện xây dựng bất hợp pháp, cảnh sát trưởng hỏi Rida :

- Anh lấy số đôla này ở đâu?

- Ali đưa cho tôi.

Cảnh sát trưởng gọi dây nói đến Cục an ninh xin một xe vận tải kín mít. Tất cả số hành khách cũ và Rida lên xe. Họ đến nhà Ali.

Cảnh sát trưởng hỏi Ali :

- Ông có đưa số trước đôla này cho Rida không?

- Có!

- Sao ông lại đưa cho hắn?

- Ông ta bán sắt làm nhà cho tôi.

Cảnh sát trưởng quay lại Rida :

- Sắt làm nhà? Thế anh có giấy phép không? Không à? Thế đấy!... Nghĩa là anh lại còn đầu cơ cả sắt nữa!

Sau đó hắn lại hỏi Ali :

- Anh lấy trước đôla này ở đâu?...

- tui được bạc đêm qua ở nhà Huxây.

Thằng ăn cắp vẫn luôn luôn cúi đầu xuống lại ngẩng lên nhìn viên cảnh sát trưởng và cười khẩy. Người cảnh binh, viên cảnh sát trưởng, thằng ăn cắp, ngườ phụ nữ khả ái, Rida và Ali ngồi lên xe vận tải đến nhà Huxây.

Trên những bàn trải dạ xanh có 10000 đồng, những quân súc sắc và cỗ bài. Sau khi những con bạc vừa được đưa đến công tố viên, cảnh sát trưởng hỏi Huxây :

- Anh lấy đâu ra trước đôla này?

- Chiếc tàu Ghêmisgơsêk sang Mỹ mới quay về. Nuri đưa cho tôi. Anh ta làm thợ máy ở đấy.

Các hành khách cũ và Huxây lên xe vận tải đi đến nhà người thợ máy Nuri. Trong nhà tay thợ máy Nuri này còn tìm thấy 10 cân thuốc phiện trắng nguyên chất. Nuri thú nhận là vừa nhận trước đôla của Ixan. Ixan tức thì bị bắt quả tang đang phạm tội ở tòa biệt thự trên đồi Bôcpho. Ở đây hắn sản xuất thuốc phiện trắng.

- Anh lấy trước đôla của ai?

- Của Rêsan.

- Rêsan là ai?

- Hắn buôn lậu quần áo lót phụ nữ bằng nylông từ Bâyrút đưa về.

Thằng ăn cắp thong thả ngẩng lên nhìn viên cảnh sát trưởng và cười khẩy. Tất cả lại lên xe vận tải, bây giờ thì đến nhà Rêsan.

Rêsan nói vừa cầm đôla của mụ Nêvin buôn quần áo lót nylông và áo tắm thun.

Song mụ này không có nhà. Mụ vẫn ở Pari hay La Mã như thường lệ.

Viên cảnh binh nói :

- Lạy Chúa, cũng may mà không có mụ ta ở nhà; trong xe cũng không còn chỗ nào trống nữa rồi.

Thằng kẻ cắp ngẩng đầu lên nhìn cảnh sát trưởng và cười khẩy.

Viên cảnh sát trưởng quát :

- Này, thằng bợm kia! Không chuyện gì mày cứ phải cười khẩy mãi thế! Rõ ràng là trong bọn này thì mày vẫn còn là kẻ nhẹ tội nhất!

Thằng bợm bị xử tội ăn cắp và ngồi tù ba tháng.

Bây giờ nó làm ăn lương thiện rồi. Và thấy bóng chiếc ví đầm đâu là nó tránh cho xa như tránh bệnh hủi vậy.









 

naka67nhh

New Member
Nếu tui là đàn bà





Xêliamét vào làm gác cổng cho một xưởng dệt kim. Hàng tháng hắn được lĩnh 80 đồng. Với 80 đồng ấy thì đến một phần tư con người cũng không sống nổi, chứ đừng nói đến một người. Nhưng hắn hy vọng ở sự cần mẫn của hắn. Cuối cùng rồi thế nào ông chủ cũng sẽ đánh giá đúng được tinh thần cố gắng của hắn mà tăng lương. Chức gác cổng đối với hắn thật quả là thấp kém, nhưng biết làm thế nào? Thời buổi này, có biết bao nhiêu người đi gác cổng cho những kẻ còn không đáng mặt làm nghề gác cổng nữa kia. Chủ nhà và người gác cổng vừa thế chỗ cho nhau.

Hắn làm ngày làm đêm, không quản công tiếc sức để hòng trước lương được thêm đồng nào hay đồng nấy. Ôi, nếu như hắn có thể trở thành người gác đêm!... Người gác đêm ở xưởng này được lĩnh những 200 đồng một tháng. Mà công chuyện lại yên tĩnh hơn nhiều. Hết lòng mong muốn điều gì, người ta nhất định sẽ đạt được. Một ngày kia, lão chủ gọi hắn vào, bảo :

- Ta rất hài lòng vì anh.

- Ða tạ ông.

Lão chủ hỏi :

- Anh có vợ rồi chứ?

Như thể bị vạch tội, hắn sượng sùng đáp :

- Dạ vâng!

Và để được yên lòng sau khi vừa thú nhận hết tội lỗi của mình, hắn cúi đầu xuống nói tiếp :

- Bẩm ông chủ, con còn 2 đứa con nữa ạ.

Lão chủ vừa ra chiều thông cảm, vừa làm hắn hổ thẹn :

- Ái chà chà! Thế anh làm sao mà sống được?

- Dạ, bẩm ông chủ, chật vật lắm ạ.

- Ta làm ơn cho anh điều này nhé. Anh có thể vừa gác cổng, vừa canh đêm được không?

- Ðược lắm, bẩm ông chủ.

- Kể ra thì anh cũng chỉ phải đứng ở cửa có 6h. Cộng thêm với 8h gác đêm nữa, vị chi là 14h. Anh hãy còn những 10h tự do nữa. Bằng lòng không?

- Xin đa tạ ông chủ.

- Ta sẽ tăng thêm cho anh 30 đồng về công chuyện gác đêm nữa.

- Dạ, xin đa tạ ông chủ.

Người gác đêm vẫn lĩnh 200 đồng một tháng lập tức bị đuổi vì tội ngủ quá say và người ta lấy anh chàng gác cổng của chúng ta thế chân vào đấy. Ban ngày đứng canh cửa, còn ban đêm, đeo chiếc đồng hồ kiểm tra trên cổ hắn đi canh gác xưởng. Tiền lương của hắn bây giờ được 110 đồng.

Hắn vốn là người chăm chỉ và cẩn thận. Hắn nghĩ: cuối cùng lão chủ cũng chẳng phải đồ ngốc, nhất định lão sẽ nhận thấy sự cố gắng của người làm và tất nhiên sẽ lại làm ơn cho hắn lần nữa. Chẳng hạn, lão sẽ giao cho hắn làm thư ký xưởng thì hay biết mấy! Thư ký được lĩnh những 300 đồng một tháng!...

Hết lòng mong muốn điều gì, người ta nhất định sẽ đạt được. Một hôm lão chủ gọi anh chàng gác cổng vào :

- Ta rất hài lòng về anh nên lại muốn làm ơn thêm cho anh một lần nữa. Ban đêm thực ra thì anh cũng không đến nỗi bận lắm. Anh có ưng làm công chuyện giấy tờ vănphòng chốngkhông? Ta sẽ trả thêm cho anh 60 đồng nữa.

Người gác cổng suy tính. Nếu vậy thì hắn sẽ được lĩnh 170 đồng...

- Cầu trời phù hộ cho ông, bẩm ông chủ - Hắn trả lời.

Viên thư ký xưởng vẫn lĩnh 300 đồng một tháng lập tức bị đuổi về tội thường để cho những ý nghĩ vẩn vơ, cà phê và thuốc lá choán hết giờ làm chuyện của mình, và người ta lấy anh chàng gác cổng của chúng ta vào thế chân. Giờ đây, ban ngày đứng canh cửa, đêm đến lúc canh xưởng, hắn lôi máy chữ ra đánh các giấy tờ.

Hắn làm chuyện đổ mồ hôi hột. Cuối cùng lão chủ cũng chẳng phải là kẻ ngu đần. Sớm muộn lão cũng sẽ phải nhận thấy tất cả cố gắng của hắn và tất nhiên là sẽ thưởng công. Lão kế toán của xưởng lĩnh những 400 đồng một tháng. Chà, nếu như có thể làm kiêm cả chân kế toán nữa!...

Hết lòng mong muốn điều gì, người ta nhất định phải đạt được. Một ngày kia lão chủ lại gọi hắn vào :

- tui hiểu rằng ở thời (gian) buổi, chúng ta thì 170 đồng chưa thấm vào đâu - Lão nói - nên tui muốn tăng lương cho anh.

- Xin đa tạ ông chủ ạ.

- Anh hẳn là còn thì giờ rỗi. Ngồi không ở nhà làm gì, anh nên nhận làm thêm chuyện tính toán sổ sách cho xưởng còn hơn.

- Dạ vâng, bẩm ông chủ.

- Hay lắm, tui tăng thêm cho anh 45 đồng nữa.

Viên kế toán của xưởng vẫn lĩnh 400 đồng một tháng lập tức bị đuổi về tội cứ nhầm trừ thành cộng, nhầm chia thành nhân.

Bây giờ anh chàng gác cổng của chúng ta được lĩnh 215 đồng một tháng. Ban ngày hắn đứng canh cửa 6h, ban đêm 8h gác xưởng và đồng thời (gian) đánh máy, còn khi về nhà thì lại tính tính toán toán.

Hắn làm chuyện thật nhiều, cần mẫn, cố làm cho nhiều hơn mức người ta đòi hỏi ở hắn. Giờ này hắn lại mơ tưởng đến chức thủ kho. Thủ kho được lĩnh những 450 đồng một tháng!

Nếu như con người hết lòng mong muốn điều gì, điều đó nhất định phải đạt được. Lão chủ lại gọi hắn vào :

- tui lại muốn làm ơn cho anh lần nữa. Anh nghĩ sao, nếu tui mời anh nhận chức thủ kho?

- Ðược như vậy con rất lấy làm mãn nguyện, bẩm ông chủ.

- Hay lắm, lương anh sẽ được tăng thêm 35 đồng. Anh đi mà nhận kho!

Viên thủ kho, một con người lơ đễnh - vừa chở nhầm về nhà đôi thứ hàng mà đáng lẽ anh ta phải chở về kho, lập tức bị đuổi, và anh chàng gác cổng của chúng ta bắt đầu làm phận sự của mình.

Hắn làm ngày làm đêm không quản sức, không tiếc thì giờ gì hết. Lão chủ chẳng phải con lừa, cuối cùng thế nào lão cũng đánh giá đúng mực sự hy sinh ấy. Và quả nhiên... Lão chủ gọi anh vào :

- Thank anh, tui rất hài lòng về anh. Người làm chuyện tốt thì ai cũng biết đến! Các công chuyện khác thì anh vẫn cứ giữ nguyên, riêng chuyện gác cổng thật không xứng đáng với anh nữa. Và từ nay tui bổ nhiệm anh làm quản đốc phân xưởng.

Làm quản đốc? Hắn đâm ngơ ngẩn cả người! Lâu nay hắn vẫn nhăm nhe cái chân quản đốc. Hết lòng mong muốn điều gì, người ta nhất định sẽ đạt được. Và thế là hắn vừa được làm quản đốc.

- tui thêm lương cho anh 80 đồng - lão chủ nói.

Kiêm làm quản đốc nên lương hắn được thêm 90 đồng, song vì thôi gác cổng lại mất 80 đồng, vậy cả thảy giờ đây hắn lĩnh 260 đồng một tháng.

Viên quản đốc cũ vẫn lĩnh 500 đồng lập tức bị đuổi vì tội tán tỉnh cô thư ký của ông chủ.

Trong phân xưởng có 40 công nhân, 2 thợ cả và 20 chiếc máy. Làm công nhân thì hắn chẳng màng, vì hắn có biết nghề ngỗng gì đâu, mà làm thợ cả thì lại càng không nổi. Hắn cũng không thể thay cho máy móc được... mà trong vănphòng chốngthì ngoài hắn, chỉ còn có cô thư ký đánh máy nữa thôi.

Lúc rảnh việc, hắn tán chuyện với cô thư ký, khen ngợi lão chủ.

- Cầu trời phù hộ cho ông chủ, một con người quý hóa quá. tui vào làm gác cổng cho xưởng được 80 đồng một tháng. Ông chủ cho làm thêm chân gác đêm, thế là tui được 110 đồng. Sau đó, ông còn cho tui làm thư ký! Lương tui tăng lên đến 170 đồng. Sau ông lại tin cẩn giao cho làm kế toán và trả tất cả 215 đồng. Rồi ông giao cho cả chuyện giữ kho, tui được 250 đồng. Và bây giờ thì không kể tất cả khoản trước trên, tui còn làm quản đốc. Và lương của tui những 260 đồng!

Cô thư ký cũng khen ngợi ông chủ :

- Thoạt tiên, tui vào làm chân quét dọn ở đây được 40 đồng. Sau đó tui nhận thêm chuyện dọn dẹp. giặt giũ ở nhà ông chủ và được tất cả 60 đồng. Rồi tui lại kiêm cả làm thư ký đánh máy. Lương tui tăng lên đến 80 đồng. Sau tui làm thêm chuyện nấu nướng và giúp đỡ chuyện nội trợ cho ông chủ, ông ta bèn tăng cho tui lên 100 đồng. Rồi sau nữa... sau nữa anh biết đấy, tui đã trở thành người có quan hệ thế nào với ông chủ. Và lương tui được tăng thêm 15 đồng. Bây giờ tui được lĩnh 115 đồng!

Hắn bảo cô thư ký :

- Cô làm chuyện nhiều như thế chắc mệt lắm đấy!

Cô thư ký đáp lại là hắn nói rất có lý và cũng hỏi lại hắn :

- Thế công chuyện anh làm không nhiều à? Lương anh như vậy không ít hay sao? Hay là anh không muốn được tăng lương nữa?

Hắn nhìn cô thư ký. Hắn nhớ ra rằng trong vănphòng chốngkhông còn ai ngoài hắn và cô thư ký nữa. Hắn nghĩ đến đống công chuyện của cô ta.

- Không, không - Hắn nói - tui không còn muốn một khoản nào thêm nữa. Thank cô. Nhưng nếu như tui là đàn bà thì sao? Thì hắn ông chủ sẽ đuổi cả cô và tăng lương cho tui thêm 20 đồng... Không, không!... Như thế này tui đã toại nguyện... Vâng, nhưng... nếu tui là đàn bà!









 

tri_ctyflp

New Member
Xin mời bác cứ đến chơi





Một ông văn sĩ rất có tiếng nọ vừa kỷ niệm ngày sinh thứ 60 của mình xong, ấy thế mà không hiểu tại sao lắm độc giả cứ khăng khăng cãi là ông phải nhiều tuổi hơn thế nhiều. Hay có chuyện lạ đời như vậy có lẽ là vì những cái nổi tiếng nói chung dễ được người ta gán thêm cho tuổi tác, để tăng thêm phần danh giá, mà cũng có thể là vì chính bản thân sự vinh quanh làm cho người ta già đi, vì nó luyện cho người ta phải biết sống phụ thuộc vào chút tiếng tăm còn dư lại của ngày xưa.

Quả thật, không hiểu tại sao người ta cứ hay nghĩ là các văn sĩ nổi tiếng thì không những phải già hơn, mà còn phải giàu có hơn cái thực tế của họ nhiều. Chứ lại không à! Tiếng tăm lừng lẫy như thế mà bảo không giàu thì ai mà tin được! Cứ gọi là trong nhà phải có một hòm vàng, phải không còn thiếu thứ gì nữa! Ðồ đạc thì chả phải nói, tất nhiên là phải toàn sập gụ tủ chè rồi!

Vậy thì ông văn sĩ mà chúng ta vừa nói bị người ta cho rằng già hơn tuổi là cũng đúng thôi. Bởi lẽ là tương tự như tất cả những người trải đời, trông ông sớm già và sớm có một vẻ gì tiều tụy, hom hem. Còn chuyện bảo ông giàu, thì tất nhiên cũng không phải không có lý. Thì cứ xem ngay cách ăn mặc của ông thì biết, chả lúc nào là không nuột nà chải chuốt. Tủ quần áo của ông tuy chưa đến mức chật ních, nhưng lúc nào cũng treo dăm sáu bộ, may cách đây tuy vừa chục năm, nhưng bộ nào bộ nấy trông hãy còn mới nguyên. Mà bộ nào ông mặc trông cũng nền lắm! Hơn nữa, tuy có lúc trong túi chỉ vẻn vẹn còn có chục bạc, nhưng ông ăn tiêu vẫn rộng lớn rãi và sang lắm, nên người ta cứ ngỡ ông phải có đến chục nghìn. ấy thế nhưng thực ra thì ông rất túng, và túng vừa lâu rồi. Có cái là ông hết sức giấu không để ai biết chuyện đó mà thôi.

Bởi vừa đến lúc tiếng tăm của ông không còn đem lại cho ông nhiều trước bạc nữa. Không biết vì thị hiếu bây giờ vừa thay đổi, hay vì một nguyên nhân già khác, nhưng ách của ông người ta không in nữa. Ðến các báo cũng không tờ nào buồn đặt ông viết bài. Các nhà xuất bản cũng chả nhà nào hỏi han gì đến ông. Thử hỏi thế thì ông, một người chỉ biết sống bằng ngòi bút, và suốt đời hy sinh cho sự nghề văn chương còn biết làm gì nữa?

Nhưng ông lại cứ tưởng rằng tiếng tăm của ông hãy còn lững lẫy lắm. Hay ông tưởng nhầm? Nếu tưởng nhầm, thì tại sao độc giả vẫn nhớ đến ông, khi đi đường ta vẫn chào hỏi ông và lúc chuyện trò người ta vẫn nhắc đến tên ông?...

Trước đây, có một thời (gian) gian ông làm cho các báo. Nhưng khổ nỗi là các ông bạn làm báo quen biết hồi xưa nay chẳng còn ai. Giá như họ vẫn còn làm ở các tòa soạn thì hẳn ông vừa đến gặp để xin chuyện rồi. Còn những đồng nghề mới thì ông lại không quen, tuy rằng nếu có đến gặp thì chắc họ vẫn biết ông, vì ông là một văn sĩ nổi tiếng, và vẫn tiếp đãi ông một cách niềm nở, thậm chí vẫn thưa gửi với ông một cách kính cẩn nữa là khác.

Nhớ lại hồi xưa, đến tờ báo nào, ông cũng được người ta đón tiếp thật là niềm nở, và ngược lại ông cũng hết sức vui vẻ thân mật (an ninh) với họ, vì thế họ lại càng mến ông và đặt ông viết lúc thì một bài báo, lúc thì một bài dịch, lúc thì một bài châm biếm.

Sáng hôm nay, ông ăn mặc cẩn thận hơn tất cả ngày: ông quyết định đến thăm tờ báo mà ngày xưa ông thường lai tới và vừa có lần đăng truyện của ông. Khi bước đến cửa tòa soạn, cái cửa mà tất cả khi ông vẫn quen ra vào tự do, ông bị người gác cửa giữ lại :

- Ông hỏi ai?

Ông trả lời là muốn gặp ông chủ bút.

- Ông tên là gì để tui vào thưa?

Ông xưng tên. Người gác cổng chừng cũng biết tiếng ông, nên khi nghe ông xưng danh, y bỗng sốt sắng đứng dậy.

- Xin ông chờ cho một phút!

Nói đoạn y gọi dây nói báo cho viên chủ bút biết rồi bảo :

- Xin mời ông vào.

Nhà văn bước vào buồng ông chủ bút. Khách và chủ chưa quen biết nhau mấy, nhưng chủ vừa nhanh nhẹn đứng lên đón, lễ phép bắt tay, rồi niềm nở kéo ghế mời khách ngồi. Sau đó, lại ân cần hỏi khách quý muốn dùng gì.

- Xin ông một tách cà phê vừa ngọt thôi ạ!

Bây giờ chắc thế nào viên chủ bút cũng sắp hỏi: “Ngài có mang gì đến cho chúng tui không ạ?” À mà không, cứ xem cái dáng điệu quá lễ phép của ông ta như thế thì chưa chắc ông ta vừa dám hỏi thẳng câu ấy, mà phải hỏi một câu gì khác, đại khái như “Ngài có điều gì cần dạy không ạ?” kia! Không biết nên trả lời ông ta thế nào đây? Chả lẽ lại nói thẳng là mình đến xin việc? Vì thế, để tránh trước câu hỏi ấy, nhà văn ta mới vào đề bằng câu :

- tui rất thích những bài báo của ông viết, nhất là cái bút pháp độc đáo của ông.

- Dạ, ngài quá khen!

- Không hôm nào tui bỏ được các bài xã luận của ông.

- Dạ, Thank ngài vừa quan tâm...

- Hôm nay nhân tiện đi ngang qua đây tui muốn rẽ vào thăm...

- Dạ, thật là quý hoá quá!...

- À mà tui không làm phiền gì ông đấy chứ?...

- Ấy chết, sao ngài lại nói thế ạ! Ðược ngài đến thăm thật là hân hạnh cho chúng tôi...

Nhưng rồi cà phê vừa cạn và những câu trao đổi xã giao cũng vừa hết. Biết nói gì nữa đây?

Viên chủ bút chắc sắp phải hỏi về mục đích cuộc viếng thăm của ông, vì vừa lâu nhà văn không đến thăm tòa báo, mà hôm nay bỗng lại đến... Tất nhiên lúc đó ông sẽ nói rõ mục đích ông đến thăm và viên chủ bút chắc sẽ hỏi: “Ngài có cuốn tiểu thuyết nào viết xong rồi không ạ? Giá ngài cho phép bảo chúng tui được đăng thì thật là hân hạnh quá...” Và ông sẽ bảo: “Rất tiếc là tui không đem theo cuốn nào. Nhưng hiện nay tui đang viết hai cuốn tiểu thuyết và một cuốn sắp viết xong...”

Khốn nỗi câu chuyện cứ loanh quanh mãi mà vẫn không chịu vào đề. Nhà văn đành phải hỏi lái sang chuyện khác :

- Các ông làm chính trị, chắc phải theo dõi tất cả các sự kiện. Vậy các ông có ý kiến thế nào về bài diễn văn gần đây của ngài thủ tướng?

Hỏi xong câu ấy nhà văn mới thấy ân hận, vì khi viên chủ bút trả lời, ông có nghe và có hiểu gì đâu.

Câu chuyện vẫn rôm rả, nhưng viên chủ bút vẫn chẳng hề ngỏ ý nhờ ông viết cho cái gì: tiểu thuyết, báo hay truyện ngắn...

- Thôi xin phép ông, kẻo làm ông mất thời (gian) gian.

- ấy chết, ngài cứ nói thế!... Mấy khi chúng tui hân hạnh được ngài đến chơi... lúc nào có dịp, xin mời ngài cứ đến ạ!

Vừa xuống cầu thang, nhà văn vừa nghĩ: Không hiểu câu ông ta nói: “Xin ngài cứ đến chúng tui rất hân hạnh” là có ý gì? Chỉ là một câu nói xã giao hay là một lời mời thành thực? Có thể, lần này ông ta chưa dám để nghị mình viết cho cái gì, chỉ vì sợ hơi đường đột chăng? Nếu vậy lần sau đến, chắc thế nào ông ta cũng phải mời mình viết cho một bài báo... Mà cũng có thể quả thật hôm nay ông ta chưa có chuyện gì cần nhờ đến mình...

Nhà văn nổi tiếng nghĩ vậy rồi đi đến tờ báo khác. Ông quyết định phải gặp viên giám đốc tờ báo này, vì hồi xưa ông có quen biết cố thân sinh ra ông ta. Lúc đầu, ông có thể gợi chuyện về bố ông ta, tỏ ý thương tiếc ông cụ, rồi dần dần sẽ lái sang chuyện làm ăn.

- Ông cần gặp ai? - Người gác cổng hỏi.

Ông trả lời là muốn gặp ông giám đốc. Nhưng người ta cho ông biết ông giám đốc đi Châu Âu mất rồi. Ðã định quay về, nhưng ra đến cửa, đứng tần ngần một lúc, nghĩ thế nào ông lại quay lại bảo người gác cửa :

- Nếu vậy bác cho tui gặp ông phụ trách mục văn nghệ.

- Ông cho tui biết tên để tui vào báo.

Ông xưng tên và người ta cho ông vào.

Câu chuyện giữa ông và ông phụ trách mục văn nghệ mở đầu cũng na ná như câu chuyện giữa ông với viên chủ bút tờ báo trước. Có điều lần này ông phải tìm cách nói khéo ngay cho chủ nhân biết là ông sẵn sàng viết một cái gì đó, thậm chí ông còn nói thẳng là từ lâu ông vẫn viết truyện ngắn cho các báo. Ðoạn ông nói thêm :

- Chỉ tiếc là có lẽ ông không còn nhớ cái hồi đó...

- Ồ, sao bác lại nói thế! tui nhớ lắm chứ! Truyện nào của bác tui cũng đều đọc cả. Bác viết truyện hay lắm, quên thế nào được.

- Các nhà văn trẻ bây giờ kể ra cũng có viết - Nhà văn lại nói tiếp - nhưng... không biết diễn đạt thế nào cho đúng... chứ thật ra thì truyện của họ chưa thể gọi là truyện được. Vì viết được một truyện hay có phải dễ đâu!

- Vâng, tất nhiên rồi, bác bảo bây giờ tìm đâu ra những người viết hay như hồi các bạn được!

“Thì hắn đang ngồi lù lù trước mặt anh đây mà anh mù hay sao!” Nhà văn suýt buột mồm kêu lên như vậy, nhưng may lại kìm được.

Khi chia tay, viên phụ trách mục văn nghệ cũng lại bảo :

- Xin mời bác có dịp cứ ghé lại chơi. Chúng tui thật lấy làm hân hạnh.

Suốt một tuần liền, nhà văn cứ đi hết tòa báo này đến tòa báo khác, nói chuyện với đủ tất cả người, từ giám đốc đến chủ bút, thư ký... Lúc thì nói về các bài xã luận, lúc thì bàn về tiểu thuyết. Nhưng lần nào cũng vậy, ông đều được người ta trả lời bằng một câu tương tự nhau “Xin mời bác cứ đến, chúng tui rất hân hạnh”. Có vài tòa soạn ông đến hàng hai, ba lần, nhưng chẳng lần nào có ai thuê ông viết lấy một chữ, hay đề nghị ông làm cho chuyện gì. Có lẽ họ không dám nói với ông vì sợ thiếu tế nhị chăng? Nhưng cũng có thể họ cho rằng một nhà văn tên tuổi như ông thì chắc phải sống ung dung lắm rồi, chuyện gì còn phải làm chuyện nữa.

Thế cho nên ông mới phải nói thẳng với họ rằng ông cần chuyện làm, hay thậm chí một chân gì trong tòa soạn cũng được. Kinh nghiệm lâu năm cho ông biết rằng những chức vụ như trưởng ban, biên tập viên, bình luận viên, hay tầm thường như một phóng viên thôi, cũng chả đời nào họ dành cho ông cả. Với lại, ông cũng chả màng đến các chức ấy. Ông sẵn sàng làm bất cứ chuyện gì, miễn là có miếng ăn là được rồi.

Ông đi hết tòa soạn này đến tòa soạn khác. Nhưng cái sách mời chào quá trịnh trọng của những người đón tiếp ông, những câu “Dạ, thưa bác” quá lễ độ của họ khiến ông đâm lúng túng, không dám thú nhận cái cảnh cùng kiệt túng của mình. Ðã có lần ông tìm cách nói thẳng với họ rằng cứ ngồi nhà mãi không có chuyện gì làm thì cũng buồn, rằng tuy thế ông cũng chưa phải già đến mức không thể làm chuyện được nữa, không thể giúp ích gì cho tất cả người được nữa, rằng ông vừa chán ngấy cái cảnh ăn không ngồi rồi, rằng ông rất sung sướng nếu có bất cứ chuyện gì để làm.

Nhưng người ta thì bảo ông: “Dạ, bác cứ nói thế, chứ ở tòa báo đâu có chuyện gì đáng cho bác làm... Bác bảo muốn làm bất cứ chuyện gì, nhưng cũng phải là chuyện quan trọng to tát chứ như các công chuyện ở tòa soạn này thì đâu có đáng để bác bận tâm. Nói thế mong bác cũng bỏ quá cho...”

Rồi lúc tiễn ông ra về, người ta còn nói thêm: “Dạ xin mời bác cứ đến chơi với chúng tôi, thế là hân hạnh lắm rồi ạ!”

Từ đó, ông quyết định không có quanh co úp mở gì nữa, mà cứ nói toạc ra là ông đang cần trước và sẵn sàng làm cả chân sửa bài.

Nhưng người ta lại bảo :

- Ấy chết, sao lại thế ạ. Ngài mà lại phải đi làm cái chuyện sửa bài thì có hoạ là...

Nhưng nhà văn không chịu thua. Ông bảo nếu không có chuyện sửa bài, thì có thể cho ông bất cứ chuyện gì khác cũng được.

Người ta lại tưởng ông đùa và bảo :

- Dạ ngài cứ nói đùa vậy chứ ạ...

Ðã thế, ông tự nhủ, phải nói thẳng hơn nữa! Ðến một tòa soạn khác, ông vừa kể cho họ biết rằng vừa ba tháng nay ông không có trước trả trước nhà, rằng ông đang mắc nợ như chúa chỏm, và bây giờ nếu có chuyện gì làm thì thật ông sung sướng biết mấy. Mà chả lẽ bao năm nay ông làm chuyện cho các báo mà bây giờ lại không xin được chuyện gì làm hay sao?

- Trời ơi, ngài có ý định giễu cợt chúng tui hay sao mà cứ nói những chuyện như thế ạ! Chả lẽ ngài lại muốn làm bất cứ chuyện gì thật hay sao?

Ông lại đến một tòa soạn khác. Và lần này thì ông không còn giấu giếm chuyện gì nữa, mà bảo thẳng với họ rằng ông đang sống dở chết dở đây, rằng bao nhiêu quần áo ông vừa phải bán hết, chỉ còn độc một bộ đang mặc trên người đây thôi. Thử hỏi thành thực đến mức ấy thì thôi chứ còn gì nữa? Cuối cùng, ông xin người ta cho ông làm cái chuyện sửa bài hay bất cứ công chuyện gì ban đêm cũng được.

- Ấy chết, ngài cứ dạy thế, chứ một nhà văn có tiếng như ngài mà phải đi làm những chuyện như thế thì còn ra làm sao ạ!

Lúc đầu, nghe người ta nói: “Ấy chết, ngài cứ dạy thế!” ông cũng cảm giác hãnh diện, nhưng sau ông mới hiểu rằng người ta nói thế chẳng qua chỉ cốt để chối khéo ông mà thôi...

Thế nhưng ông vẫn cứ đi lạy lục hết tòa soạn này đến tòa soạn khác để xin việc. Ðể rồi lại được nghe những lời rất tử tế :

“Ấy chết... Xin mời ngài cứ đến chơi ạ. Thật là quý hóa!”

Khốn nỗi, chỉ nghe những lời tử tế suông thôi, người ta đâu có thể no bụng được!









 

KelVin_KelVin

New Member
Những điều trớ trêu của kỹ thuật





“International Hister Corporation” - Một công ty lớn nhất ở Mỹ, xuất khẩu sang Thổ Nhĩ Kỳ đủ tất cả thứ đồ điện, máy móc, động cơ, tủ ướp lạnh, máy thu thanh, máy kéo, xe vận tải, soong đun có còi báo, tóm lại là tất cả những mặt hàng tối tân nhất của thế kỷ 20. Nhưng “International Hister Corporation” không phải chỉ hoạt động trong phạm vi như vậy là hết. Công ty vừa ký hợp đồng xây dựng một kênh đào và tiến hành thăm dò địa chất ở miền Trung Anatoli.

Nhưng tất cả điều đó vẫn không ngăn trở thay mặt công ty ở Thổ Nhĩ Kỳ ngày ngày gửi các đơn khiếu nại về nhà máy ở Milwork. Các loại hàng hóa đưa vào Thổ Nhĩ Kỳ, kể từ dao cao râu chạy điện cho đến ô tô buýt và xe vận tải, chỉ qua một thời (gian) gian là hỏng, là không tài nào chữa được nữa. “International Hister Corporation” có 105 đại lý, chi nhánh và cửa hàng ở khắp năm châu, nhưng đơn khiếu nại gửi về hãng nhiều nhất vẫn là từ Thổ Nhĩ Kỳ. Ðể đáp lại các đơn khiếu nại ấy, chuyện kiểm tra những mặt hàng xuất sang Thổ vừa được tăng cường, số lượng phụ tùng kèm theo cũng tăng lên nhưng đơn khiếu nại vẫn cứ gửi đến mãi.

Lúc này công ty bèn đặt vấn đề nghi ngờ các hãng cạnh tranh với mình vừa mưu hại, mà cạnh tranh với công ty này là những hãng lớn: “Jo Chalmers Co” và “Truck company”. Người của “International Hister Corporation” vừa được đưa vào những hãng này để phá hoại. Thế là những đơn khiếu nại cũng lại gửi tới tấp đến chỗ họ.

Sau khi ký hợp đồng về các công trình xây dựng, “International Hister Corporation” bèn bắt tay vào chuyện điều tra nguyên nhân thực sự vừa gây ra những vụ khiếu nại. Người ta quyết định là viên tổng giám đốc công ty sẽ sang Thổ còn trưởng ban kỹ thuật là kỹ sư Harry Scott sẽ đảm nhiệm chuyện nghiên cứu các đơn khiếu nại nhận được các khách hàng. Ba xưởng đi Anatôli để nghiên cứu các vụ khiếu nại. Họ dựng lều ở một thung lũng lớn, nơi định tiến hành các công trình thăm dò địa chất. Làng gần nhất ở cách chỗ họ 18 cây số. Sau khi sang Thổ được một hôm, mixtơ Harry Scott cũng hai kỹ sư, hai kỹ thuật viên và một phiên dịch lên xe hơi đi đến từng làng.

Tại làng thứ nhất, người phiên dịch nói với xã trưởng và khách hàng trong quán cà phê những lời như sau:

- Các ông các bà có thể mang đến đây những thứ hàng của công ty “International Hister Corporation” bị hỏng. Chúng tui sẽ chữa không lấy tiền. Những ông này sang đây chính là để làm chuyện đó.

Thoạt tiên những người nông dân không hiểu gì cả, và tay phiên dịch lại giải thích:

- Chả lẽ trong làng này không ai có máy kéo, máy liên hợp, rađiô, máy khâu à?

- Có! Có! - những người nông dân kêu lên.

- Nếu các ông bà có đồ dùng của công ty này làm ra bị hỏng thì các kỹ sư đây sẽ chữa cho không mất tiền!

- Các ông xem giúp tui cái rađiô - Một nông dân rụt rè nói.

Ông ta bảo con trai về lấy chiếc máy thu thanh bị hỏng. Khi thằng con mang lại, các kỹ sư và kỹ thuật viên bắt đầu xem xét. Nhưng họ cố công tìm mãi mà vẫn không thấy nhãn hiệu chiếc máy thu thanh đâu cả: Nó vừa bị xóa đi mất và trên vỏ máy đầy các hình vẽ và những dòng chữ vạch bằng dao nhíp. Trên mảnh vải thô cũng ở vỏ máy có gài những chữ cái bằng đồng làm thành chữ “mashallah”, và bên cạnh đó không biết vì sao lại treo một hạt cườm xanh. Từ bên trong hộp máy thò ra những cái đinh, trong số đinh có ba cái bị bẻ cong. Giữa các bộ phận trong máy có buộc các dây thừng và dây gai thậm chí cả những giẻ rách mầu sặc sõ nữa.

Xem xong sơ đồ máy, các kỹ thuật viên ngơ ngẩn nhìn nhau. Harry Scott hỏi người phiên dịch:

- Ðây là cái gì?

Phiên dịch hỏi những người nông dân:

- Họ hỏi đây là cái gì?

- Lão ta mù hay sao? Rađiô chứ còn cái gì nữa! - Tức thì có tiếng trả lời.

Harry Scott trợn ngược mắt lên vì ngạc nhiên:

- Ðây là máy thu thanh? - Lão hỏi lại - Chắc là hàng sản xuất ở địa phương. Máy vừa chạy bao giờ chưa?

- Chạy rồi chứ - Người nông dân đáp - chúng tui đã nghe được mấy tuần lễ.

- Thế cái đinh to tướng này để làm gì? - Harry Scott hỏi qua phiên dịch.

- Chỗ núm vặn bị gãy mất, tui bèn lôi cái đinh ở chiếc gậy vẫn dùng để đuổi bò ra và cắm vào máy.

- Còn những sợi dây thép này? - Harry Scott chỉ vào những sợi dây điện thoại to tướng thò ra lòng thòng từ trong máy.

- Những dây cũ mảnh lắm, lúc chúng bị đứt tui bèn cho những dây này vào.

Các kỹ sư và kỹ thuật viên lại ngắm nghía cái hộp nằm trước mặt họ lần nữa, những vẫn chịu không dám gọi nó là chiếc máy thu thanh. Ở đây họ vừa trở nên bất lực, và do đó cảm giác mình hết sức lúng túng.

- tui cũng có chiếc máy thu thanh như thế - một nông dân khác nói xen vào - Nhưng tui đã tìm được cách trị nó. Chạy suốt một năm nay rồi.

Và người nông dân bắt đầu biểu diễn cách “trị” của mình. Ông ta nối những dây thép và các dây rợ lòng thòng vào các bộ phận máy, vặn cái đinh thay cho tay vặn và... đèn cháy lên. Nhưng chiếc máy thu thanh vẫn yên lặng. Người nông dân bèn đập vào vỏ mấy lần và bằng tiếng nhạc tự nhiên từ trong máy bật ra. Những người kỹ sư ngơ ngác kinh ngạc. Mấy phút sau chiếc máy lại nín bặt. Người nông dân bèn nhấc bổng nó lên và lắc mạnh. Chiếc rađiô bắt đầu chạy nhưng lại im ngay. Khi ấy, chẳng cần suy nghĩ lâu la gì, người nông dân bèn giáng luôn một quả đấm thật mạnh vào máy. Và kỳ lạ chưa kìa! Kính trong các cửa sổ quán cà phê cũng phải rung lên vì tiếng hát.

- Chỉ có thế là nó mới hiểu được - người nông dân giải thích hành động của mình - Nếu thôi không chạy thì cứ mang nện xuống đất là lại kêu ngay!

Những người kỹ sư há hốc mồm vì kinh ngạc, kéo ra khỏi quán cà phê, lên xe hơi đi đến một thị trấn, nơi họ phải xem xét những máy móc hỏng mang nhãn hiệu “International Hister Corporation” gồm hai ô tô buýt, một xe vận tải, một máy kéo và một xe du lịch. Ðến thị trấn, họ đi xem chiếc xe hơi của lão chủ khách sạn. Chiếc xe đậu ở một ngõ quặt chật hẹp. Từ cửa ô tô thò ra ống khói của một bếp lò bằng sắt. Làn khói nhẹn toả ra từ chiếc ống khói. Trên các cửa sổ có treo những rèm cửa bằng vải hoa sặc sỡ, chiếc kính hậu vỡ được thay bằng một tờ báo căng ra. Một cánh cửa bằng gỗ dán và đeo trên hai chiếc nẹp da. Một bánh xe không có lốp. Tại chỗ một bánh xe khác có chèn kích. Những cánh chén bùn bánh sau không có. Các đèn pha đều vỡ, lò sưởi điện tương tự như cục bột nhão rúm ró. Chỉ có con mắt thật tinh tường mới nhìn ra được màu sơn xanh ban đầu của chiế xe dưới những vệt bẩn đủ màu sắc phủ bên trên. Số xe được viết bằng keo màu.

- Ðây la cái gì? - Harry Scott sửng sốt hỏi phiên dịch.

- Mắt ông không nhìn thấy à? Chả nhẽ ông ta chưa trông thấy chiếc xe hơi bao giờ hay sao? - có tiếng đáp lại.

Harry Scott và những người đi theo choáng váng vì kinh ngạc.

Những người dân trong thị trấn xúm lại quanh chiếc xe hơi. Con trai lão chủ khách sạn nói rõ thêm:

- Chúng tui mua chiếc xe này nửa năm trước đây. Ðược bốn tháng thì hỏng mất! Thế là đành phải đem cho thuê làm chỗ ở vậy.

- Chiếc ô tô buýt của tui cũng y như thế - có tiếng nói từ trong đám đông - nhưng tui đã tìm được lối thoát: tất cả ngày tui chạy không quá 100 cây số! Nó dừng thì tui lại sửa. Nói chung thì tui đã biết cách điều khiển nó thế nào rồi.

Họ rót xăng vào chiếc xe hơi của lão chủ khách sạn, nhưng thùng chứa xăng bị chảy. Lỗ thủng được bít lại bằng nhựa cây. Người con trai lão chủ ngồi vào sau chiếc tay lái gẫy.

- Nào, lạy đức Ala! - Tay chủ ô tô buýt thốt ra, chạy lấy đà và đẩy mạnh chiếc xe hơi.

Ðộng cơ bắt đầu nổ lạch bạch.

Những người kỹ sư tỏ vẻ ngỡ ngàng giang hai tay ra.

Bây giờ họ phải xem chiếc máy kéo hỏng. Trên máy béo có treo những túm hanh, tôi, chiếc giày cũ, cái móng ngựa, những giãi vải; trên mui xe ngổn ngang các túi và bọc chằng dây thừng.

Thật khó lòng tin nổi rằng đây là chiếc máy kéo! Vì thế nên những người kỹ sư lại đành chịu không hiểu nổi nó hỏng ở chỗ nào.

Thấy vậy, một người nông dân đứng dấy bèn lấy búa giáng mấy cái vào chiếc máy kéo, và động cơ bắt đầu nổ.

- Ông vừa biết cách làm cho máy chạy rồi còn khiếu nại gì nữa? - Harry Scott hỏi.

- Cứ nện vào đầu thì ai mà chẳng phải làm! - Chủ nhân máy kéo đáp.

Những người kỹ sư tiến lại chiếc xe ô tô buýt. Thùng xe được ghép bằng các khung cũ có lắp các bảng ghi những đoạn trích trong sách kinh thánh Côran. Trên chiếc gương dán tờ lời cầu nguyện “giúp cho thoát khỏi tất cả tai họa”; các ghế đệm êm có trải chiếc chiếu tương tự như những chiếu trải trong quán cà phê. Trên thành xe kẻ các dòng chữ lớn: “lên đường bình an”, “trở về mạnh giỏi”, “Ala phù hộ cho tôi”, “phượng hoàng của tôi!”.

Những người kỹ sư không sao tin được rằng chiếc ô tô buýt, này vừa làm ở Mỹ. Người ta đẩy chiếc ô tô buýt, lấy búa gõ, nhưng xe vẫn không chạy.

- Hượm tý đã! - Người dân địa phương kêu lên.

Quay lưng lại tất cả người, anh ta nhấp nắp che máy lên và đái vào môtơ.

- Bây giờ thì thế nào cũng chạy, tui đã hãm cho nó nóng lên một tý rồi.

Và động cơ bắt đầu nổ thật.

Ngay chiều hôm ấy, Harry Scott một nhọc trở về lều, vừa viết một bức thư cho viên tổng giám đốc công ty “International Hister Corporation”.

“Về phương diện kỹ thuật - Ông ta báo tin - thì người Thổ vừa vượt xa chúng ta và các nước khác rất nhiều. Họ ngấm ngầm chế làm ra (tạo) tại các xưởng máy của họ những chiếc ô tô, máy thu thanh, máy kéo và xe vận tải theo các sơ đồ và bản vẽ bí mật. Họ che giấu toàn thế giới chuyện sản xuất của họ. Người Thổ, những kẻ có sức mạnh xưa nay ai cũng biết, vừa dùng quả búa nện để trị máy kéo, dùng nước tiểu đối với ô tô buýt. Ðiều bí mật (an ninh) về kỹ thuật ấy còn cao hơn bí mật (an ninh) nguyên tử. Ðể khám phá ra bí mật (an ninh) đó đề nghị phái ngay sang đây các đặc vụ chuyên về lãnh vực này. Quyền lợi của công ty đòi hỏi phải làm như vậy.”









 

meokonk

New Member
Những người thích đùa





Cuộc đời thật là cay đắng. Cuộc đời thật là chông gai. Cuộc đời thật là... tui có hẳn ba quyển vở dày cộp chép toàn những câu triết lý về cuộc đời như thế. Tổng cộng khoảng gần 16 nghìn câu mà tui đánh giá là hay nhất.

Ðời là bể khổ. Ðời là bờ dốc đứng. Ðời là một ghềnh thác. Ðời là một cái sân khấu, vân vân...

Nhưng rồi ở trang cuối, tui lại ghi mấy chữ: “Vậy thì đời là cái cóc khô gì?”

Ồ, thưa quí vị, đời cay đắng và chua xót lắm! Không tin, xin quí vị cứ nghe câu chuyện tui kể đây rồi tự xét đoán xem tui nói có đúng hay không.

Hồi ấy tui không làm ăn gì cả. Chẳng phải vì tui giàu có hay vì được thừa hưởng một gia tài kếch sù gì, mà chẳng qua vì tui không sao tìm nổi chuyện làm. Ðã hai ngày tui sống chỉ bằng không khí và nước lã.

Một hôm, tui đến ngồi trên một chiếc ghế đá vườn hoa để suy nghĩ về bản chất cuộc đời. Bên cạnh tôi, có một ông ngồi xem báo. Lúc ông ta nhét tờ báo vào trong túi, tui hỏi :

- Ông có thể cho tui ngó qua tờ báo một chút được không ạ?

Ông bạn ngồi cùng ghế đưa cho tui tờ báo. tui vội lướt nhanh các mục rao vặt. Có một mâu tin khiến tui thoáng hy vọng: “Cần tuyển người làm, bất kể đàn ông hay đàn bà, già hay trẻ.” Thế là không để lỡ một phút, tui trả lại tờ báo cho chủ nhân, rồi ba chân bốn cẳng phóng ngay đến cái địa chỉ ghi trong mẩu rao vặt. Ðó là một ngồi nhà năm tầng, nằm ngay giữa khu vực đông đúc nhất của thành phố. Sợ đến chậm, nên chẳng cần chờ thang máy, tui cứ thế bước mấy bậc một lên thẳng tầng thứ 5. Cánh cửa treo biển số 18 đây rồi! tui thấy người ta bước vào đó, lần lượt từng người một. Người nào lúc vào trông mặt cũng đầy hy vọng. Nhưng khi bước ra thì trông ai cũng hầm hầm tức giận.

Ðể cho hơi thở vừa trả lại bình thường, tui mới tiến lại phía cửa :

- tui xem báo thấy nói ở đây...

Không đợi tui nói hết câu, người gác cửa khoát tay ra hiệu cho tui vào. tui bước vào một căn buồng có kê rất nhiều ghế băng và ghế bành. Ðã có sáu người đàn bà và tám người đàn ông ngồi chờ ở đó. Còn năm người khác, trong đó có tôi, thì đứng.

- Công chuyện gì đấy hả ông? - tui hỏi người đứng cạnh. Người này cũng có số phận hẩm hiu như tôi. Ông ta đáp :

- tui cũng không biết. Chỉ thấy người ta gọi từng người một vào. Nhưng vào được độ mười phút, hay cùng lắm là nửa tiếng, thì thấy ai cũng chạy bổ ra như ma đuổi, chửi ầm cả lên.

Ðúng lúc đó cửa sịch mở và một người đàn ông mặt đỏ gay lao raphòng chốngchúng tôi, chửi rủa om sòm :

- Ðồ đểu, đồ khốn cùng nạn!

- Ðến lượt ai? - Người gác cửa kêu to.

- tui ạ! - Một phụ nữ còn trẻ, phấn son loè loẹt nói, đoạn bước vào buồng trong. tui hỏi một người đang ngồi đợi :

- Họ làm gì trong ấy thế hả ông?

- Chắc họ thử trình độ!

Thế là tui hối hả ôn lại trong trí nhớ tất cả những gì người ta dạy tui ở trường học. Cứ phụ thuộc vào các dấu hiệu bên ngoài mà xét, thì đây là một cơ quan thương mại, như vậy ắt họ phải kiểm tra trình độ toán học. tui vội vàng nhẩm lại bảng cửu chương, rồi ôn lại cách tính phần trăm, tính hạ giá...

Bỗng cửa mở tung và người phụ nữ mang đồ trang sức rẻ trước ban nãy bước ra, mặt đỏ như gấc :

- Quân khốn cùng nạn, đồ vô lương tâm!

Chị ta kêu ầm lên và từ phía trong vọng ra một giọng cười đàn ông khả ố.

- Chả lẽ họ làm nhục chị ấy? - tui chợt rùng mình.

- Không phải đâu! - Người bên cạnh tui đáp - tui chắc người ta ra một câu hỏi gì hóc búa quá và chị ta không trả lời được đấy thôi!

- Ðến lượt ai nào? - Người gác cửa lại kêu to. Lần này người vào là một anh thanh niên, chính cái anh chàng vừa nãy nói rằng chị phụ nữ không trả lời được câu hỏi. Trong lúc tui đang loay hoat ôn lại cách tính phần trăm rắc rối, thì thấy anh ta vừa lao vọt ra như một mũi tên, miệng gào lên :

- Mẹ kiếp! Thế mà cũng gọi là công việc!

- Anh chàng này hoá ra lại kém cả đàn bà! - người ngồi cạnh tui nói với giọng chế giễu.

Lúc này sau lưng tui đã có cả một dãy người. Người gác cửa vẫn tiếp tục gọi từng người một vào.

tui túm lấy áo ông ta, rụt rè hỏi :

- Họ làm gì trong ấy thế hả bác?

- Sát hạch! - Ông ta cười khẩy đáp.

Cứ mỗi lần thấy có người từ bên trong lao ra và lớn tiếng chửi rủa, là tui lại thấy mừng thầm. Vì như thế tui càng có nhiều hy vọng có công ăn chuyện làm. Nhưng mừng mà vẫn lo. Vì không biết công chuyện gì mà họ kiểm tra một cách kỳ lạ như vậy? Giá như chưa đến nỗi đói lắm, thì tui đã nhổ toẹt vào công chuyện và bỏ đi quách cho rồi! Hàng người cứ tiến lên rất nhanh. Trước mặt tui là một ông già xanh rớt như tàu lá. ở trongphòng chốngbước ra, ông ta mệt lả người, đến nỗi không còn sức mà chửi rủa nữa.

- Họ làm gì trong ấy thế hả bố? - tui tò mò hỏi. Ông ta khoát tay bảo :

- Không phải hỏi. Cứ vào trong ấy khắc biết.

Người gác cửa hỏi to đến lượt ai? tui im lặng. Người xếp hàng sau tui bảo :

- Ðến lượt anh đấy!

- Ông vào trước đi. tui không vội lắm - tui nói vậy, nhưng bị ông ta phản đối :

- Không được! Phải có thứ tự chứ! tui chưa đến lượt tui không vào!

Ðồ con lợn! Giá đây là xếp hàng đi xe điện hay xe buýt, thì có lẽ hắn vừa chả tử tế như vậy, mà huých bật tui ra khỏi hàng từ lâu rồi!

- Mời ông cứ vào trước đi!

- Không, không! Anh phải vào trước chứ!

Người gác cổng huých vào lưng tui đẩy vào. tui nghe thấy cửa đóng sập lại sau lưng.

- Ôi, lạy chúa! - tui thầm khấn - Xin ngài che chở cho con. Nếu đúng là sát hạch hay kiểm tra gì thì xin ngài hãy giúp con vượt qua tất cả, để con có thể kiếm được chuyện làm.

Không hiểu vì đói hay vì sợ, tui bỗng thấy mặt mày sa sầm.

Căn buồng mà tui bước vào bày biện như một văn phòng. Những người ngồi ở đó đang cười ha hả. Trông người nào cũng to béo, bụng chảy sệ, cằm thì hai ngấn. Thế thì làm gì mà không hay cười?

tui tiến lại gần một ông ngồi sau chiếc bàn lớn có mặt kính. Ông này chắc hẳn là chủ tịch hội đồng giám khảo.

- Anh có thích đùa không? - Ông ta hỏi.

tui đưa mắt quan sát tất cả tất cả người có mặt trong phòng. Có chừng mười người tất cả. Nhưng không người nào ăn mặc tồi tàn và trông ốm đói như tôi. Vậy ắt hẳn họ phải là những người thích đùa. Vì thế tui vội nở ngay một nụ cười đáp :

- Tất nhiên là thích chứ ạ! Chả nhẽ trên đời này lại có người không thích đùa hay sao!

- Tốt lắm. Thế nghĩa là anh rất thích đùa? - Ông ta kéo dài giọng - Vậy thì anh hãy ngồi xuống chiếc ghế salông này!

Chân tui lúc bấy giờ vừa mỏi lắm, chỉ muốn khuỵu ngay xuống, nhưng vì sợ thất lễ nên tui không dám ngồi.

- Dạ, thưa ngài, tui đứng cũng được ạ.

- Không, không được! Anh vừa nói là thích đùa cơ mà! Thế thì cứ ngồi xuống!

Từ chối nữa e không tiện, tui đành Thank và rón rén ngồi xuống ghế.

- Không, ngồi vào đây, vào chiếc salông này cơ!

tui lại đứng dậy và ngồi sang chiếc salông.

- Thế, phải rồi! Tất cả những người mà anh thấy đang ngồi đây đều là những người rất thích đùa - viên chủ tịch giám khảo nói.

- Thưa ngài, thế thì hay quá! Gì chứ đùa thì tui mê lắm ạ!

Thế là họ bắt đầu hỏi tui đủ tất cả chuyện. tui đáp lại họ bằng những câu ngắn gọn và lễ phép. Bỗng tui cảm giác cái ghế ngồi bắt đầu nóng lên, rồi mỗi lúc một nóng hơn. tui thấy mình như một cái hạt dẻ bị rang trên chảo nóng. Lạy thánh Ala!... Hay là tui lên cơn sốt chăng? Nhưng nếu sốt, thì cái nóng phải tập trung ở đầu, chứ không thể ở chỗ nào khác. tui bắt đầu nhăn nhó, oằn oại trên ghế. Thấy vậy tất cả người phá lên cười. Thì họ là những người thích đùa mà lại, và điệu bộ tui lúc ấy chắc phải tức cười lắm. tui cảm giác như ngọn lửa vừa cháy vào tận ruột gan nhưng nhìn thấy họ cười, tui cũng bất đắc dĩ phải nở một nụ cười gượng gạo.

- Anh làm sao thế? Trong người khó chịu à? - Họ hỏi tôi.

Nếu tui trả lời là bị ốm, thì tất nhiên đời nào họ còn lấy tui vào làm nữa. Vì thế tui phải nói :

- Ðâu có ạ! tui khỏe như trâu ấy chứ ạ!

- Thế tại sao anh cứ oằn oại thế?

Rồi họ lại nhìn tui cười rũ ra.

- Xin lỗi, tui bị bệnh rò hậu môn - tui tìm cách nói dối như vậy - xin các ngài cho phép tui được đứng!

Nói đoạn tui đứng dậy, lau mồ hôi trán. tui vừa toan hét to vào mặt họ: “Làm gì mà các ông cười rống lên như vậy?” nhưng chợt nhớ ra họ là những người thích đùa, nói thế chỉ tổ bị đuổi thẳng ra ngoài, nên tui lại thôi.

Vị ngồi sau bàn rung chuông gọi người gác cửa và bảo :

- Mang nước chè vào cho ông này!

tui nghe nói mà mát cả ruột. Như vậy là họ vừa thích tôi. Nhưng cơn đói làm bụng tui cồn cào. Chà, cái lũ giun chết tiệt ấy nó hành hạ tôi! Người gác cửa mang vào cho tui một tách nước trà. Nhưng tui chưa kịp thả hai miếng đường vào, thì nước trong cốc bỗng nhiên sủi bọt và trào ra ướt hết cả tay. Mọi người lại được một trận cười no bụng. Mà kể ra nhìn cái bộ dạng ngây độn của tui lúc ấy thì ai mà nhịn cười cho được!

Một vị trong ban giám khảo cố nhịn cười bảo tui :

- Anh hãy mở cánh cửa kia ra. ở trên cái bàn phía sau cửa ấy có một cái gậy. Anh hãy cầm cái gậy ấy lại đây!

tui làm theo lệnh của ông ta, nhưng không thấy cái gậy nào cả.

- Thưa ngài, trên bàn không có gì cả ạ! - tui bối rối nói.

- à, đây rồi - người ta lại gọi tui lại. Rồi viên giám khảo tiếp tục thẩm vấn tôi. Nhưng thật là tai hại, tui bỗng lên cơn hắt xì hơi và không tài nào trả lời được. Ðúng là hoạ vô đơn chí!

- Anh tên là gì?

- Tôi... hắt... hắt... hắt xì hơi! Tôi... tôi... tôi... hắt... hắt... xì. tui tên là... Ac... mét, xì hơi!

“Mình bị làm sao thế này?” tui e sợ ưự hỏi. Lần đầu tiên trong suốt 40 năm, hy vọng có được chuyện làm vừa chợt loé lên, thì ác hại thay, cái ghế ngồi bỗng nóng rực lên, rồi nước chè tràn ra khỏi cốc, rồi lại hắt xì hơi!

- Bốn... bốn... bốn... hắt xì... hơi. Bốn mươi... hắt... xì hơi... mốt...

Mọi người lại cười rộ lên. Cuối cùng, một vị trong ban giám khảo nói :

- Ðằng kia có cái vòi nước kia kìa! Anh ra rửa mặt đi!

tui ra rửa mặt và cảm giác dễ chịu hơn, không hắt xì hơi nữa, nhưng không hiểu sao nước mắt bỗng chảy ràn rụa như suối. Hay là tại đói chăng? tui bắt đầu khóc nức nở như một thằng hề vậy. Thôi, thế là đi tong! Chưa hết hắt xì hơi vừa lại bắt đầu chảy nước mắt thế này, thì còn ai người ta nhận vào làm nữa!

- Tại sao anh lại khóc?

- Ai? tui ấy ạ? Dạ, tui cũng không biết tại sao nữa! Chắc tại tui nhớ đến bà mẹ tui đã mất...

Thế là tất cả người lại lăn ra mà cười. Còn tui thì cứ thút tha thút thít như đứa trẻ. Một vị giám khảo khác lấy trong tủ ra một lọ nước hoa đưa cho tui và bảo :

- Anh hít một tí nước hoa này cho nó dễ chịu!

tui nhỏ mấy giọt nước hoa vào lòng bàn tay rồi đưa lên mũi hít. Thứ nước hoa đúng là đặc biệt thật. Vừa hít vào vừa thấy dễ chịu ngay. Nhưng... ơ kìa! tui lại bị làm sao nữa thế này? ấc... ấc. Chết cha rồi! tui lên cơn nấc! Thôi, lần này thì mới thật là hết nhé! Này... người ta sắp tống cổ tui đi này!

- Trước đây anh làm nghề gì?

- Dạ... ấc... ấc! Trước đây... ấc! tui làm... ấc! Nghề đánh... ấc! Giầy... ấc!...

- Thôi, lạy chúa, xin anh đừng nói nữa! Anh hãy mở cái tủ này ra!

tui vừa mở cánh cửa tủ thì bỗng... Ầm một cái như tiếng đại bác. Hết hồn, tui ngã bệt ngay xuống đất. Thôi đến nước này thì còn hy vọng gì công chuyện nữa, tui nghĩ thầm, không khéo mình còn phạm tội giết người nữa là đằng khác! Vì có khi họ bị vỡ bụng ra vì cười.

Bỗng tui thấy một ông to béo thổi tung bụi ở bàn. Rồi một lát sau tui cảm giác ngứa không chịu được.

- Tại sao anh cứ phải gãi thế?

- Dạ, tui cũng không hiểu tại sao nữa ạ! tui mới tắm hôm qua...

Hay là tui bị bọ mẹt đốt chăng? Nhưng nếu bọ đốt thì chỉ ngứa một chỗ thôi chứ! Ðằng này khắp người tui chỗ nào cũng ngứa ran.

- Trình độ văn hoá của anh thế nào? - Một ông nhiều tuổi nhất trong ban giám khảo hỏi.

- Dạ, thưa, tui đã tốt nghề khoa Văn ÐH Tổng hợp ạ!

Ông ta dí sát tai vào mặt tui bảo :

- Anh nói to lên, tui bị nặng tai.

Quả thật tui thấy một lỗ tai của ông ta có đeo một cái ống nghe. tui hét to, trong khi vẫn ra sức gãi :

- Khoa Văn!

- Cái gì?

tui lại hét rõ to một lần nữa vào lỗ tai ông ta: “Khoa văn!” Thế là từ cái ống nghe ở lỗ tai ông ta có một tia nước bỗng bắn vọt vào mặt tôi. Quá bất ngờ, tui lại ngã phịch xuống sàn. Không biết đây là cái chỗ gì vậy nhỉ? Vănphòng chốngquái gì mà lại thế! Hay là tui rơi vào một cái hang quỷ sứ?

Xung quanh tôi, các vị giám khảo cứ ôm bụng lăn ra mà cười. Họ cười giật từng cơn như bị động kinh. Nhưng rồi cuối cùng, cơn cười cũng chấm dứt. Mọi người nghiêm trang đứng cả dậy.

- Khá lắm! - Một ông trong ban giám khảo khen tui - Anh vừa chịu được tất cả các cuộc thí nghiệm. Chúng tui đã thử đến 40 người, nhưng không ai chịu được đến phút cuối cùng. Thậm chí có người mới vừa sau thí nghiệm thứ nhất vừa bỏ chạy.

- Thưa ngài, tui chưa hiểu. Ngài bảo tui chịu được những cuộc thí nghiệm gì cơ ạ?

- À, chả là thế này: ở Mỹ có một hãng chuyên sản xuất các thứ hàng đặc biệt. Họ gọi đó là những món hàng “biết đùa”, vì chúng có thể làm cho người ta cười. Hãng này có gửi cho chúng tui một số mặt hàng mẫu và để nghị chúng tui cùng kinh doanh.

- Vâng, thế thì sao ạ?

- à, nhưng vì một số thứ hàng có thể gây ra những hậu quả nguy hiểm, nên chúng tui quyết định phải thử trước...

Rồi họ quay sang bàn bạc với nhau :

- Nghe đâu ở bên Mỹ có đến hơn một vạn cửa hàng bán các thứ hàng này...

- Phải đấy! Riêng trước xuất khẩu các thứ hàng này nghe nói cũng vừa tới trên 20 triệu đôla cơ đấy!

- Họ có giới thiệu cho ta hơn 50 mặt hàng.

- Ta phải ký hợp đồng với họ ngay đi. Cái món này hời đấy! Vì dân ta cũng ham đùa lắm. Gì chứ món hàng này của người Mỹ dứt khoát là họ phải đổ xô vào mua.

Vị nhiều tuổi nhất trong đám nói với viên thư ký :

- Ông viết đi: 2000 đệm ghế phát nhiệt, hai vạn hộp bột ngứa, 500 hòm nước hoa nấc, 5000 tá máy điếc bắn nước, hai vạn chai nước làm chảy nước mắt, năm tấn đường gây cười, ba vạn hộp phát tiếng nổ. Ông nhớ bảo họ gửi ngay cho ta tất cả các thứ đó nhé!

tui hiểu rằng như thế là tui đã được nhận vào làm, nhưng không hiểu là sẽ phải làm gì? Mọi người vẫn say sưa thảo luận nên chẳng ai còn nhớ đến tôi. Thấy vậy, tui mới lên tiếng hỏi vị chủ tịch giám khảo :

- Thưa ngài, tui có được nhận vào làm không ạ?

- Ðược - Ông ta đáp - anh tỏ ra là người có sức chịu đựng khá nhất trong số những người mà chúng tui đã thử.

Ðoạn ông ta quay sang bảo viên thư ký :

- Ông nói với ông thủ quỹ trả cho ông này 2 lia rưỡi!

Rồi lại quay sang phía tui nói tiếp :

- Công ty của chúng tui mỗi tháng sẽ nhận được các hãng sản xuất hàng gây cười ở bên Mỹ tất cả những mặt hàng mới. Vậy cứ ngày mồng 5 mỗi tháng anh hãy đến đây để chúng tui thử các mặt hàng mới nhận được. Anh sẽ được lĩnh 2 lia rưỡi 1 tháng. Anh nhớ là cứ vào ngày mồng 5 đầu tháng nhé!

- Ha ha ha!... Ha ha ha!...

Ðột nhiên tui ôm bụng cười vang. Vị chủ tịch ban giám khảo cũng mỉm cười nhìn tui :

- Ồ, té ra anh cũng là người biết đùa đấy nhỉ!

Tuy vừa lả người đi vì đói, nhưng tui vẫn cố thu nốt chút sức tàn, thoi một quả vào giữa mũi lão chủ tịch. Lão ta bị một cú đấm trời giáng, ngã quay xuống đất.

- Xin các vị cứ coicoi nhưtui đùa - tui bảo họ thế.

- Ðùa kiểu du côn thế à?

- Các vị thứ lỗi cho, nhưng có 2 lia rưỡi 1 tháng thì bọn dân đen chúng tui đâu có thể mua nổi những thứ hàng biết đùa của các ngài được! Nên chúng tui phải đùa theo kiểu của chúng tui vậy!

Nói đoạn, tui đóng sập cửa, bỏ về







 
Cái kính





Một hôm, cách đây chừng 7, 8 tháng, có người bạn hỏi tui :

- Tại sao anh không đeo kính?

- Làm sao tui phải đeo?

- Tuổi anh bây giờ là phải đeo rồi chứ còn sao nữa. Không đeo, đến lúc mắt hỏng nặng, không nhìn thấy gì đâu!

Từ lúc người bạn đó ra về, mắt tui tự dưng mờ hẳn. Nhìn gần nhìn xa đều không rõ nữa.

Lâu nay tui vẫn thầm mong cho tóc chóng rụng, cho trán hói đi. Rồi đeo thêm chiếc kính vào cho ra dáng trí thức. Vì tui cho như thế là dấu hiệu của một anh trí thức. Ngay như anh bán thịt bây giờ mà để trán hói và mang kính vào, tui cho trông cũng không khác gì giáo sư đại học! Nhưng cái mơ ước ấy của tui không thực hiện được, vì tóc tui mỗi ngày một dày thêm. Thế thì ít ra tui cũng nên sắm cái kính mà đeo vậy. Ai nhìn thấy tôi, người ta phải bảo: bác học đấy!

Vậy là tui đi khám đốc tờ. Khám xong, ông này bảo tui :

- Anh bị cận thị! 1,75 đi-ốp!

Theo đơn ông ta dặn, tui sắm một cái kính. Nhưng cứ động đeo vào là tui thấy mặt mày sa sầm, buồn nôn không chịu được. Thậm chí có lần, nói vô phép các bạn, tui nôn thật! Nôn thốc nôn tháo, nôn ra cả mật (an ninh) xanh mật (an ninh) vàng. Không đeo thì không nhìn thấy gì, mà đeo thì tuy nhìn thấy được, nhưng lại bị cảm giác buồn nôn. Thật đúng là khổ!

Một ông bạn khác thương hại bảo tui :

- tui có thể giới thiệu với anh một ông bác sĩ giỏi. Anh hãy đến ông ta khám xem!

Ông bác sĩ này xem mắt tôi, rồi xem chiếc kính.

- Thằng cha lang băm nào cho anh đơn mưa cái kính này thế? Có phải anh bị cận thị đâu!

- Thế tui bị làm sao ạ?

- Viễn thị! 2 đi- ốp!

tui lại mua kính mới. Ðeo chiếc kính này tui không còn thấy chóng mặt buồn nôn nữa, nhưng lúc nào cũng bị chảy nước mắt. Ðâm ra mắt tui lúc nào cũng đỏ hoe; như khóc ai vậy. tui bị cái cảm giác thương xót rất lạ. Cặp kính này chỉ có đeo để đi đưa đám là hợp.

Một ông bạn thân tỏ vẻ ái ngại cho tui :

- Thế này thì cậu đến mù mất! Cậu phải đi khám bệnh viện nhà nước xem sao! Ở đấy họ khám cẩn thận. Lại có giáo sư nhãn khoa nữa, chứ không như mấy ông bác sĩ tư!

Bệnh viện nhà nước quả là có khác thật: máy móc nhiều, mà công cụ cái gì cũng sáng loáng.

tui được một giáo sư khám. tui kể cho giáo sư nghe cái bất hạnh của tui :

- Người thì bảo tui là cận thị, người thì bảo là viễn thị!

Giáo sư giận lắm :

- Quân ngu! Anh không phải cận thị, cũng không phải viễn thị, mà là loạn thị!

Theo đơn của giáo sư, tui mua đôi kính khác. Cặp kính này tui đeo vừa lắm, trông cái gì cũng rõ. Phải mỗi tội bây giờ cái gì như cũng lùi hẳn ra xa. Mấy bức tường trong căn buồng tui sống hàng chục năm nay dường như bị lùi xa đến hàng ba chục thước. tui giơ tay chực bắt tay người quen, nhưng không sao với tới được. Ðịnh viết, giấy vừa chạy xa khỏi tay đến hai thước. Nhìn vật gì cũng thấy bé tí xíu. Người thì chỉ bằng hạt đậu ván... Nhưng hại nhất là tui không ăn uống gì được. Vì vừa ngồi vào bàn là đĩa thức ăn vừa chạy đi xa hai chục thước rồi. Mùi súp nóng bốc ngay dưới mũi, nhưng cứ cầm thìa chực múc, thì bát súp vừa ở cách xa hàng hai mét! tui không ăn uống cử động gì được nữa. Một anh bạn phải dắt tay tui đến một bác sĩ khác tốt nghề ở Mỹ về. Khám xét cẩn thận xong ông ta bảo tui :

- Ðứa nào cho anh đơn mua cái kính này đây? Ðúng là đồ lang vườn dốt nát ! Anh cứ kiện lênphòng chốngcông tố cho nó bỏ mẹ!

- Thôi ! Cứ để thánh Ala trừng phạt hắn ! - tui nói.

tui lại thay kính mới. Bây giờ mắt tui nhìn cái gì cũng hóa hai. Nhà tui đang bảy người, bỗng nhiên thành mười bốn. Mỗi người lại có một người tương tự hệt mình. Thật tui chưa bao giờ thấy chuyện lạ như vậy. Chả lẽ lại có những người tương tự nhau đến mức độ như thế hay sao? Vô lý quá! Nhìn xuống chân thì thấy bốn chiếc ủng, nhìn bàn tay thì thấy có mười ngón!

tui đến một ông bác sĩ khác. Ông này học ở Ðức về.

- Ai bảo anh đeo kính này?

- Làm sao ạ?

- Sai chứ còn sao nữa!

Hóa ra một mắt tui bị viễn, còn mắt kia thì cận. Vị danh y mới lại ghi cho tui chiếc kính khác. Bây giờ tui không phân biệt được sáng tối nữa. Xung quanh tui tối như hũ nút.

- Ðứa dốt nào ghi cho anh chiếc kính này vậy hả? Mắt anh trả toàn bình thường, có làm sao đâu.

- Nhưng tui không thấy gì cả! Tối cứ như bưng ấy!

- Thế là anh bị quáng gà thôi, chứ chẳng có làm sao hết!

Lại uống thuốc, lại tiêm, lại kính mới... Bây giờ các vật ở xa trông lại hóa gần. Chân đáng lẽ leo lên tàu thủy, thì lại bước ngay xuống biển... Vì tàu chưa cập bến, nhưng trông cứ như vừa ngay sát bờ. Không còn viên bác sĩ nào trong tỉnh là tui chưa mò đến! Ông này bảo mắt phải tui cận, mắt trái viễn thì ông khác nói ngược lại, ông trước kêu bị loạn thị thì ông sau phán là bị đục nhân mắt. Ðeo kính của cái ông bảo tui bị đục nhân mắt, thì cái gì cũng xa màu xanh cả. Có ông còn đoán tui bị chứng mù màu. Nhìn phía trước nhìn sang bên, nhìn xa nhìn gần, cái gì cũng biến thành hai, màu sắc lẫn hết. Ði trên đường thẳng mà tui có cảm giác như bước xuống cầu thang, mỗi bậc cách nhau hàng bốn năm chục phân. tui cứ phải bước từng bước dài như lạc đà vậy.

Một lần, đang đi trên cầu, thế quái nào tui bước hụt một cái, ngã lăn quay xuống dưới. Vì cứ tưởng những bậc cầu thấp hơn đến một mét. Cái kính bị văng đi làm tui không nhìn thấy gì nữa. Cái gì cũng mờ mờ ảo ảo. Người ta đỡ tui dậy :

- Cái kính của tui đâu rồi? - tui hỏi.

Họ tìm thấy kính đưa cho tôi. tui đeo kính vào thì... Thánh Ala ơi!... Mọi vật bỗng trở nên sáng sủa rõ ràng quá! Vật nào đúng vật nấy, rõ mồn một! Rõ như chưa bao giờ tui có thể nhìn rõ vậy. Hay kính của người khác chăng? Không! Ðích thị kính của tui đây mà! Ðúng gọng sừng to màu đen đây! tui sướng không sao tả được! Bây giờ thì đừng hòng tui bước chân đến một anh bác sĩ mắt nào nhé! tui vừa đọc được cả mấy dòng chữ nhỏ nhất trên báo và nhìn rõ cả tên chiếc tàu thủy đậu tít ngoài xa. tui đi về nhà, lòng vô cùng sung sướng.

- Kính của anh sao thế kia? - Vợ tui hỏi.

- Làm sao?

tui bỏ kính ra xem. Ngón tay thò qua được cả lỗ gọng! Té ra mắt kính vừa bị vỡ rơi mất rồi mà tui không biết.









 

Weatherly

New Member
Quê ta vạn tuế





- Nếu cậu tin những chuyện sau đây là thật thì tớ cũng coi như một người vừa chết - Anh ta nói.

Chúng tui tựa lưng vào tường ngục sưởi nắng. Viên coi tù Darưpoócxôn chắp tay sau đít đi qua mặt chúng tui ra vẻ muốn nói rằng hai tay hắn vừa đắp lên những ngọn đồi kia.

- Thế thì ai mới là người sống? Cái gì chả thế - tui đáp - cậu phải Thank trời đất mới phải. Có những người còn cơ cực hơn chúng ta nhiều ấy chứ. Thôi vui lên, còn cái xác là may rồi!

- Ðâu có thế, ông bạn, - Anh ta phản đối - không còn ai có thể cơ cực hơn được. Phải khẳng định là tớ vừa không còn tồn tại nữa. Bây giờ thậm chí tớ cũng không thể giải thích cho cậu được... Cậu có nhìn thấy tớ thật, nhưng cái đó chẳng nghĩa lý gì: tớ vẫn cứ là vừa chết rồi, tớ không còn tồn tại. Ðầu tiên tớ biết là tớ không còn nữa vào lúc tớ 12 tuổi. Trước đó ở quê tớ không có trường công. Năm đó nhà nước công bố bảng chữ cái và những nhà có học ở quê tớ quyết định phải đưa con vào trường công. Bố tớ tự cho mình là người có học thức nên cũng muốn tớ vào đó. Thế rồi ông ấy cầm tay tớ dắt đi. Ông hiệu trưởng đòi bố tớ cho xem giấy khai sinh của tớ.

- Chúng tui chưa khai cho cháu - Bố tớ nói - hay ông lấy giấy của tui vậy!

Tất nhiên là không được. Ở trường Ðavuđa Khôđji, học trò học chữ cũ, không cần khai sinh.

Bố tớ cứ muốn tớ học trường mới...

Phải cầu cứu đến người làm đơn thuê ngồi trướcphòng chốngthị chính. Sau đó cầm đơn vàophòng chốngkhai sinh... Một thầy ký nhận đơn, rồi rút ra những sổ sách gì gì, sau đó lục mãi mới thấy phần ghi về bố tớ.

- Ông là Rêsít? - Người ấy hỏi.

Đạ phải - Bố tớ đáp.

Thầy ký lần sách đọc những số liệu về bố tớ :

- Năm sinh 1897... quận Ðêghimentep phố Tavaxbaga, số nhà cũ là 51, mới là 28... Năm 1911 lấy vợ là Khađgiê. Sinh con trai là Êmin. Phải vậy không?

- Ðúng ạ - Bố tớ đáp - tui muốn làm giấy khai sinh cho thằng cháu Êmin. tui định cho cháu vào học trường công. Trước đây người ta không đòi khai sinh.

Thầy ký nghi hay nhìn bố tớ :

- Cha nội ơi, khai sinh nào cơ? Con ông chết lâu rồi còn gì!

- Ấy chết, ngài nói vậy! - Bố tớ sửng sốt - cháu nó đây, nó đang đứng cạnh tui mà.

Thầy đọc lại mấy hàng trong sổ :

- Ông là Rêsít?

- Ðúng, Rêsít.

- Bố ông tên là Mêmét?

- Ðúng, điều ấy cũng đúng.

- Ông lấy vợ tên là Khađgiê, sinh con tên là Êmin.

- Hoàn toàn đúng. Ðích thực là vậy. Và bây giờ tui muốn khai sinh cho thằng cháu Êmin ấy đây.

- Thế là thế nào? Mọi cái đều đúng, mà riêng chuyện thằng Êmin chết thì lại sai. Sổ ghi là nó chết, mà người chết thì làm sao lấy giấy khai sinh được nữa.

Tớ khóc oà lên.

- Nín đi - Bố tớ quát - có phải sổ ghi chết là mình phải chết đâu mà sợ.

- Nhưng thầy ký bảo con vừa chết rồi, hu...hu...!

- Kệ thầy ấy. Cứ nghe bố nói là đúng.

- Sổ vừa ghi là không có bao giờ sai, - Thầy ký lý sự - vừa ghi là y như thực. Ông có mưu gì chăng. tui không làm đâu. Không ai đi cấp khai sinh cho người chết rồi.

- Mưu gì là thế nào kia ạ? - Bố tớ rụt rè hỏi.

- Nhà các ông bao giờ cũng lắm chuyện lắm - Thầy ký đáp - ông muốn mặc cả với người nhà nước đòi người chết ra người sống hả? Tráo trở thật.

- Vậy xin hỏi, cháu nó chết ngày giờ nào ạ? - Bớ tớ hỏi thêm.

Thầy ký liếc sổ :

- Ðại chiến thứ nhất nó bị đi lính. Năm 1915 hy sinh ở Tranacal. Nó được xóa sổ vì có giấy báo tử của đơn vị số 331/85.

Bố tớ nổi đóa :

- Bẩm ông, ông nghe đây, ông xem lại sổ xem, tui lấy vợ năm 1911 cơ mà.

- Phải - Thầy ký đáp - có ghi: ông lấy vợ năm 1911.

- Thế cứ cho rằng con trai tui sinh vào ngày cưới tui đi, thì năm 1915 nó mới có 4 tuổi. Làm sao trẻ con 4 tuổi lại đi lính và chết trận được.

Thầy ký bối rối, lão nhìn tớ, nhìn sổ, rồi nhìn bố tớ, rồi lại nhìn sổ, cuối cùng kết luận :

- Thằng Êmin nhà ông sinh năm 1896. Vậy là khi chết nó 19 tuổi.

- Con tui sinh năm 1896? - Bố tớ hỏi lại - Thánh Ala phù hộ cho ông, thế còn tui sinh năm nào, ông xem lại sổ xem.

Thầy ký xem sổ.

- Ông sinh năm 1897. - Lão nói.

- Ông ơi, ông chớ có nói rằng hóa ra tui lại sinh sau con tui một năm cơ đấy?

Mấy thầy ký khác cùngphòng chốngbước lại, nhưng không ai biết đằng nào mà lần.

- Sổ vừa ký như thế thì chịu - Thầy ký của tớ bảo thế - Tất nhiên, là có khiếm khuyết gì đây, nhưng chưa biết chỗ nào?

- Thưa các thầy - Bố tớ bảo các thầy ký - có thầy nào ở đây đẻ sau con mình không?

Một thầy sửng cồ :

- Ðừng lôi cổ bố người khác vào chuyện của mình. Người chết chúng tui không cấp khai sinh, thế thôi!

Bố con tớ lên chỗ ông trưởngphòng chốngkhai sinh kể lại đầu đuôi. Ông trưởngphòng chốngtheo bố con tớ xuống chỗ mấy cuốn sổ cái. Hai bên cùng xem lại hồ sợ

- Ðúng hết - Ông trưởngphòng chốngnói - Sổ vừa ghi thế. Con ông hy sinh năm 1915 - Rồi ông lại ra chiều suy nghĩa, cuối cùng lại dứt khoát - Hẳn là thế. Vợ ông nhiều tuổi hơn ông. Ðúng là ông vừa lấy một quả phụ. Bà có con riêng tên là Êmin. Thẳng con ghẻ Êmin của ông hơn ông một tuổi, nhưng, sổ vẫn ghi ông là bố.

Tớ khóc rống lên.

- Im đi, con - Bố tớ giận dữ nói - Ai là người biết rõ bố của con, ta hay là sổ?

Ngài trưởngphòng chốngkính cẩn nói :

- Sao ông nói lạ thế? Rành rành đây còn gì nữa!

Dù bố tớ không biết đọc biết viết nhưng ông không thuộc hạng người dễ dàng đầu hàng.

- Khađgiê, con gái ông Bêkia, sinh năm 1904 - ông trưởngphòng chốngđọc trong sổ.

- Vậy theo ông - Bố tớ nói - vợ tui sinh năm 1904, còn thẳng con Êmin của bà ấy sinh năm 1896, phải vậy chứ gì? Ông nghe tui nói này, có bao giờ ông thấy con ra đời trước mẹ nó 8 năm không?

Theo cuốn sổ ấy thì tớ sinh trước bố tớ một năm và trước mẹ tớ tám năm. Mẹ tớ lấy bố tớ năm lên 8 tuổi và sinh ra tớ 15 năm rồi mới đến hôn lễ.

Các thầy ký và ông trưởngphòng chốngxúm quanh cuốn sổ, thảy đều cúi đầu trầm tư mặc tưởng. Bỗng ông trưởngphòng chốngnghĩ ra :

- Hẳn là thế này: trước đó bà Khađgiê vừa lấy 1 đời chồng, người chồng ấy có một đứa con riêng tên là Êmin. Ðứa con ghẻ ấy của bà Khađgiê hơn bà 8 tuổi. Chồng chết, bà không bỏ rơi cậu nghĩa nam kia mà vẫn nuôi nó khi lấy ông Rêsít. Thấy chưa, thằng Êmin hơn mẹ kế nó 8 tuổi và hơn bố dượng nó 1 tuổi.

- Ðúng thế - Thầy ký của chúng tớ nói - chỉ có thể là như vậy.

- Quỷ thật! - Bố tớ phát cáu - Lại còn thế nữa! Vợ tui lấy tui năm lên 8 tuổi, mà trước đó lại còn 1 đời chồng nữa?

- Hẳn chứ - Ông trưởngphòng chốngnói - làm sao khác được? Nếu nhà ông giải nghĩa được đúng hơn, xin mời!

Tớ lại khóc.

- Làm gì mà gào lên thế con - Bố tớ an ủi - Thôi, vào trường Ðavađa Khôđji mà học, thế là xong.

Nhiều năm sau, lúc tớ lớn lên, lại có chuyện.

Các cậu có thể tin được rằng người ta bắt tớ vào lính hay không? Vì tớ chết rồi cơ mà. Tớ vừa chết ở Tranacal rồi. Làm sao người chết còn đánh nhau được? Nhưng bố con tớ không làm sao cho họ hiểu ra. Bọn cảnh sát tóm được tớ dẫn đến bàn tuyển quân. Bố tớ cũng đi theo.

- Bẩm ngài, trong sổ vừa có mục khai tử cho nó rồi đấy ạ. Cháu nó có đâu. Nếu nó sống thật thì nó vừa được cấp giấy khai sinh.

Bố tớ chưa kịp nói hết câu, lão trưởng ban vừa gào lên :

- Sao, nhà ông muốn giấu thằng này khỏi quân dịch à?

Tớ bị đưa về đơn vị ngay tút sụyt. Thực ra, tớ cũng mừng. Như thế nghĩa là tớ vẫn còn sống. Tốt quá. Rồi đến lúc mãn hạn. Bạn bè tớ được giải ngũ, còn tớ không được cấp giấy cho về. Làm sao lại cho một thằng như tớ xuất ngũ được? Muốn xuất ngũ phải có giấy nhập ngũ vừa chứ. Mà tớ lại không có cái giấy ấy. Ðơn vị tớ người ta gửi lên ban quân ngũ xin giấy cho tớ. Chưa đầy 1 tháng có giấy báo về: “Người mà các anh đòi xin giấy vừa hy sinh năm 1938 khi thi hành quân lệnh trong chiến dịch Ðécxim.”

- Người ta nhầm đấy - tui nói với ngài sĩ quan chỉ huy đại đội - không phải tui chết ở Ðécxim, mà là ở Tranacal cơ. Tốt nhất là ngài hỏi vềphòng chốngkhai sinh, ở đấy có đủ số liệu.

Tớ vừa tốn bao nhiêu công sức để đi chứng minh rằng mình vẫn còn sống. Không chứng minh thế, không giải ngũ được. Cuối cùng người ta cấp cho tớ một tờ giấy in nói rằng tớ vừa mãn hạn quân dịch và được thả về.

Ðến nhà, tớ mới hay rằng bố tớ vừa chết, nhưng ông ấy còn một món nợ ngân hàng 5000 đồng và 2000 đồng thuế nhà nước chưa trả. Mà tớ lại là kẻ nối dõi tông đường duy nhất, tớ đành phải gánh nợ. Mấy ông phán sở tái chính không cho tớ một phút nào yên tĩnh.

- Các ông ơi, tui có còn sống đâu! Ông nào không tin cứ đếnphòng chốngquân vụ mà hỏi. Ðến đấy chưa tin xin hỏi tiếp đếnphòng chốngkhai sinh. Người chết làm sao trả nợ thay bố?

- Thế anh không phải là con trai ông Rêsít hay sao? Anh định trốn nợ cha đấy hả?

- Không, tui nào có trốn. Nhưng tui chết thật rồi mà...

Chà! Giải thích thế nào được! “Muốn sao thì sao anh cũng phải trả nợ cho cha!” Tớ vừa định bụng không trả, nhưng bọn họ nói rằng còn nợ thì chưa được thừa kế gia sản. Bố tớ lại còn một ít ruộng, một nhà ở và một cửa hàng. Tớ bèn vay trước trả nợ. Tớ nghĩ, được hưởng gia tài rồi tớ sẽ trả hết. Lúc trả nợ thậm chí tớ còn thấy vui trong bụng. Ít ra khi trả nợ người ta cũng còn cảm giác được rằng người ta còn sống. Nhưng đến cái khoản gia tài thì lại khắc hẳn! Làm sao chứng minh được rằng tớ là con bố tớ? Lại phải khai sinh! “Nhà anh chết rồi, sao còn thừa kế được gia tài. Mà anh còn chết trước bố anh nữa ấy chứ.”

- Người ta tuyên bố với tớ như vậy. Thế là tớ lại không chứng minh được rằng tớ còn sống. Tớ bảo họ: “Thôi được, thế bây giờ tui có đứng trước mặt các ngài hay không? Các ngài có nhìn thấy tui hay không đấy? Ðứng trước mặt các ngài là người thật hay tượng gỗ? tui có tòng quân không? Có trả nợ không?”

- Những cái đó chẳng có nghĩa lý gì - Họ bảo - Trước pháp luật anh là kẻ chết.

- Nhưng tui đã chết đâu - Tớ cãi.

- Không chết, nhưng liệt hạng chết!

Tớ đâm đơn ra tòa. Tớ thuê thầy cãi. Trước tòa, luật gia bộ tài chính phản bác tớ. Vì thay mặt cho quyền lợi ngân khố quốc gia, lão ta khẳng định rằng một khi bố tớ vừa không có người thừa kế thì tài sản kia phải nộp ngân khố. Lão cứ khăng khăng một lẽ: người thừa kế vừa chết. Trạng sư của tớ nói rằng tớ sống, còn lão ta thì rằng tớ chết. Cứ thế cãi nhau tùm lum. Luật gia bộ tài chính đưa ra những giấy tờ hợp thức đến nỗi suýt nữa tớ cũng phải đồng ý và thừa nhận rằng tớ chết thật rồi.

Vụ kiện kéo dài 2 năm. Không có giấy khai sinh tớ không xin đâu được chuyện làm. Nợ nần ngập cổ, một hôm tớ điên đầu lên và nói lảm nhảm những gì không nhớ. Tớ bị bắt và bị tống ngục. Tớ bảo: Này các người, sao lại bắt tôi? tui chết rồi mà! Làm sao còn bắt người chết?

- Anh bạn ơi! Người chết thì sao lại nói được? Tán như ranh mà kêu là chết rồi!

Các cậu thấy không? Bị vào tù, tớ lại thấy vui là khác. Ít ra trong lòng tớ còn lóe lên một niềm tin rằng tớ vẫn sống.

Ra tù tớ lại thấy buồn vì mình chẳng được hưởng cái gia tài kia. Các chủ nợ bắt đầu thúc ép. Tớ phủi tay chuồng đi Istanbul, nhưng vẫn không được đi làm. Ở đó tớ gặp một cô gái và định cưới. Nhưng cưới sao được khiphòng chốngkhai sinh chỉ cho giấy khai tử? Tớ đành sống ngoại hôn với nàng. Nhưng lấy gì mà sống? Tớ đành tìm một người đứng tên để mở cửa hàng. Tớ là người chết thì sao làm được chủ tiệm. Ðược một năm thì người đứng tên cuỗm trước của tớ chuồn mất. Tớ phải nộp thuế. Tớ tuyên bố rằng tớ chết rồi, nhưng ma nào tin.

Làm thế nào được? Tớ đành đi ăn cắp. Bị tóm, tớ bảo rằng: “Trước pháp luật tui là người chết.”, nhưng không ai thèm nghe. Người chết mà lại ăn cắp được! Ðã ăn cắp được nghĩa là vẫn sống. Sự thể thế đấy: mày muốn đi học, người ta bảo mày chết rồi, lúc có quân dịch mày là người sống, lúc cần giải ngũ - lại chết, trả nợ cho bố thì sống, còn hưởng gia tài - mày có sống đâu, nhưng cần bỏ tù thì mày lại sống.

Tớ cũng vui vì lại vào tù. Dù sao bây giờ trước mắt tất cả người tớ cũng hiện hữu, mặc dầu chính thức thì vừa là chết. Nhưng tớ còn 4 đứa con, chúng không ra sống cũng chẳng ra chết; trước pháp luật chúng chưa ra đời. Bố chúng không có thì sao chúng ra đời được?... Thôi, còn 3 ngày nữa tớ ra tù rồi, tớ sẽ lại không còn sống trước pháp luật nữa.

Viên cai ngục nâng coi lên miệng.

Tù nhân dạo chơi phải vào khám, chúng tui cũng đứng lên.

- Cậu ạ - anh ta nói - trước pháp luật chúng ta không sống, nhưng dẫu chúng ta có sống phỏng vừa ích gì? Cái chính là làm sao đất nước hùng cường phải không? Quê ta vạn tuế. Còn chúng ta, chúng ta không sống chăng, cũng được.









 

Finegan

New Member
Secmenđi sinh ngày nào





- Người ấy là một nhà đại bác học.

- Thế ông ta có phát minh gì không?

- Rõ thật cái anh này! Dĩ nhiên là phải có chứ! Ðúng là thời (gian) buổi bây giờ, không nói gì đến hạng dân thường, mà ngay cả những người có học cũng chẳng anh nào quan tâm gì đến khoa học cả! Nhà bác học này có cống hiến rất lớn cho nền lịch sử văn học nước ta đấy, vì ông ta vừa tìm ra một ngày quan trọng.

- Ngày gì thế vậy?

- Chắc anh có nghe nói đến một nhà thơ ở thế kỷ 15 tên là Secmenđi chứ?

- Không, tui chưa nghe nói bao giờ.

- Sécmenđi để lại cho hậu thế một tập thơ lớn. Tên tuổi của ông được nhắc đến trong nhiều tập thi tuyển.

- Vậy thì sao?

- Chả là thế này: tất cả các tài liệu về văn học sử đâu như đều nói Sécmenđi sinh ngày mồng 4 tháng 5. Nhưng vị giáo sư nọ vừa bác bỏ trả toàn ý kiến đó.

- Bác bỏ bằng cách nào?

- Bằng cách viết hẳn một cuốn sách dày 600 trang.

- Và trong 600 trang ấy ông ta vừa chứng minh được quan điểm của mình?

- Ồ, đâu có! Giải quyết một vấn đề phức tạp như vậy anh tưởng dễ lắm đấy! Ðó mới chỉ là tập mở đầu thôi. Trong tập này giáo sư mới chỉ khẳng định rằng Secmenđi không phải sinh ngày mồng 4 tháng 5.

- Rồi sau đó?

- Sau đó, sang tập 2, tập 3, mà có khi cả tập 4 nữa cũng nên, giáo sư mới dùng tất cả lý lẽ để chứng minh rằng, cái ngày mồng 4 tháng 5 ấy là sai. Tiếp đến, sang tập 5 và tập 6, ông mới cho biết ngày sinh chính xác của Secmenđi.

- Thế sẽ có bao nhiêu tập tất cả?

- Hiện giờ cũng chưa biết sẽ có bao nhiêu tập tất cả. Chỉ biết giáo sư mới viết xong tập thứ nhất, mà như thế cũng vừa mất 15 năm rồi!

- Anh bảo gì? 15 năm?

- Chứ sao! Anh thật chẳng hiểu gì về khoa học cả.

- Thế đến bao giờ giáo sư mới viết xong các tập kia?

- Nếu thánh Ala cho giáo sư sống thêm 15, 20 năm nữa, thì ông sẽ trả thành tập 2. Năm nay giáo sư vừa hơn 60 tuổi rồi.

- Nói dại mồm, thế nhỡ chẳng may giáo sư... tịch đi.

- Thì các nhà bác học khác sẽ tiếp tục công trình của giáo sư, ngay từ chỗ mà ông dừng lại.

- Anh cho phép tui hỏi một câu: Quả thật anh bắt đầu làm cho tui thấy tò mò. Lúc nãy, hình như anh có nói Secmenđi không phải sinh ngày mồng 4 tháng 5. Thế thì ông ta sinh ngày nào?

- Ðó chính là vấn đề mấu chốt nên phải xác minh để làm sáng tỏ lịch sử văn học nước nhà. Secmenđi sinh không phải ngày mồng 4 tháng 5, mà là đêm mồng 3 rạng ngày mồng 4. Nhưng sự kiện này xảy ra trước 12h đêm, nên ngày sinh của ông tất phải coi là ngày mồng 3, chứ không phải mồng 4. Tất cả các nhà nghiên cứu văn học sử vừa bị nhầm chính là ở chỗ này.

- Và toàn bộ công trình phát minh của giáo sư cũng chỉ là ở chỗ đó?

- Thế theo anh, tìm ra được ngày sinh của một nhà thơ cổ hãy còn là ít hay sao?

- Không phải, nhưng tui không hiểu tại sao giáo sư không thể nói vắn tắt điều đó trong vài dòng, mà phải tốn công viết hàng mấy trăm trang giấy?

- Anh nói chán quá! Nếu viết vài dòng, thì một bác học như giáo sư, còn gì là bác học nữa? Còn có gì là khác người thường nữa? Những nhà bác học, sở dĩ là bác học, bởi vì họ biết cách trình bày thế nào để những điều hết sức dễ hiểu cũng trở thành những cái rất khó hiểu, như kiểu đánh đố vậy. Chỉ có vài dòng thôi, nhưng họ biết cách kéo ra thành vài trăm trang. Cái khác nhau giữa những nhà bác học và những người không phải bác học chính là ở chỗ đó.

- Nếu vậy thì làm sao anh biết được nhà thơ Secmenđi không phải sinh ngày mồng 4, mà vào ngày mồng 3 tháng 5? Anh đọc cuốn sách ấy rồi ư?

- Anh hỏi kỳ quá! Ai mà hiểu nổi những cái viết trong sách của các nhà bác học được! Khoc học nó thâm thuý lắm, chứ đâu phải...

- tui biết. Nhưng chính vì thế tui mới muốn hỏi, tại sao anh lại biết được ngày sinh của Secmenđi?

- Thực ra tui biết không phải là vì tui đọc sách của giáo sư, mà vì chính giáo sư nói với tôi... Với lại, nói chung những tác phẩm như vậy người ta viết ra không phải để cho tất cả người đọc...

- Thế thì người ta in làm gì?

- Anh thật chả hiểu cóc khô gì về khoa học cả! Này nhé, tui giả dụ có một tác phẩm nào đó được in ra, được người ta tranh nhau mua, tranh nhau đọc, ai đọc cũng đều hiểu cả, thì thử hỏi như thế nó còn quái gì là giá trị nữa? ấy thế cho nên các nhà khoa học mới mong cho tác phẩm của họ in ra thà cứ nằm mốc trên giá sách cho bụi bặm còn hơn là được tất cả người tranh nhau đọc. Anh nên nhớ rằng chỉ có cuốn sách nào ít người đọc, hay thậm chí không có ai đọc cả, hay chỉ có cuốn sách nào viết rất khó hiểu, hay thậm chí không ai hiểu nổi, mới làm tăng uy tín của tác giả mà thôi.

- Thú thật anh làm tui rất ngạc nhiên.

- Có gì mà ngạc nhiên! Anh tưởng viết để không ai hiểu được dễ lắm đấy phỏng? Anh có thấy từ nãy đến giờ tui với anh nói chuyện với nhau vừa hơn một tiếng đồng hồ rồi, mà chúng mình vẫn cứ hiểu nhau một cách rất dễ dàng không? Bây giờ tui với anh hãy thử nói chuyện với nhau thế nào để không ai hiểu ai cả độ

dăm phút thôi, xem có dễ không nào?

- úi, thế thì khó lắm!

- Không phải là khó, mà nói thẳng ra là không thể được. Hơn nữa, đây lại không phải là chuyện ngồi tán phét với nhau dăm ba phút, mà là viết hàng trăm trang sách, mà lại viết thế nào để vẫn có đầu có đuôi hẳn hoi, chứ không phải viết nhăng viết cuội. Nếu không thì lại tương tự như cái anh loạn trí, thích nói lảm nhảm hàng mấy giờ, có khi mấy ngày liền, những chuyện chẳng ra đâu vào đâu cả. Nhưng những người này thì chẳng bao giờ trở thành bác học được! Vậy thì cái khác nhau giữa nhà bác học và anh mất trí là ở chỗ nào? Nhà bác học có thể viết một cuốn sách hàng mấy trăm trang mà người đọc chẳng hiểu gì hết, chỉ thấy như bị lạc vào một khu rừng rậm ấy. Nhưng có điều là trong sách của họ, không thể tìm được lấy một lối ngữ pháp hay đặt câu nào cả, hay cảm giác có câu nào gọi là lủng củng hay thiếu logic cả. Còn như anh mất trí thì nói câu trước câu sau là vừa lẫn lộn rồi. Dễ hiểu thôi: vì anh ta mất trí mà lại!

- tui muốn hỏi anh một điều: nhưng làm thế nào giáo sư chứng minh được là Secmenđi sinh không phải ngày mồng 4 tháng 5, mà vào đêm mồng 3 rạng ngày mồng 4?

- Nhưng giáo sư có chứng minh điều gì như vậy đâu! Trong một bài thơ đăng trong một tuyển tập thơ của mình, Secmenđi có viết :

“tui chào đời

Là chào cả hôm qua và cả hôm nay.”

Như thế là rõ quá rồi còn gì? Chào cả hôm qua và cả hôm nay là lúc nào? Là nửa đêm. Dạng thức của động từ “chào” ở đây chỉ một hành động chưa kết thúc, mà còn tiếp tục kéo dài sang cả thời (gian) tương lai. Nghĩa là Secmenđi sinh ra trước lúc nửa đêm một chút, vào khoảng kém 5 hay kém 3 phtú gì đó thì đến nửa đêm. Như vậy có thể suy ra ngày sinh của ông không phải là mồng 4, mà là mồng 3.

- Cứ đánh giá là đúng như thế đi, nhưng tui vẫn không hiểu tất cả những cái đó cuối cùng để làm gì?

- Ðể làm gì ư? Này nhé, nói ví thử bây giờ có một nhà bác học nào đó viết một cuốn sách 3 tập và nói rằng Secmenđi sinh vào lúc 23h30'' ngày mồng 3 tháng 5. Nhưng một nhà bác học khác lại bác bỏ ý kiến của ông ta và bảo rằng: “Không đúng, Secmenđi sinh vào hồi 23h35'', chứ không phải 23h30.” và lại viết một cuốn sách dày những năm tập để chứng minh cho điều đó. Thế là cuối cùng người ta xác minh, được chính xác cả ngày sinh lẫn nơi sinh của nhà thơ Secmenđi.

- Nói anh tha lỗi, chứ thật tình tui vẫn chưa hiểu gì cả. ừ thì cứ đánh giá là Secmenđi sinh không phải ngày mồng 4 tháng 5, mà là mồng 3, không phải vào hồi 23h30'', mà là 23h35'' đi. Nhưng biết được như thế để rồi cuối cùng rút ra cái gì?

- Anh nên nhớ rằng người ta soạn ra được lịch sử vào học cũng chính là từ những cái rõ hơn ấy đấy. Một người bảo “Mồng 3 tháng 5”, người kia bảo “Không phải, mồng 4 chứ!” Thế là nổ ra tranh cãi. Và người nào viết được cuốn sách dày hơn và khó hiểu hơn là chứng tỏ người đó uyên bác hơn.

- tui không hiểu vậy thì lợi ích thực sự của cuộc tranh cãi ấy là ở chỗ nào?

- Trời ơi, cái anh này mới thật tối dạ! Anh không biết rằng chính nhờ những cuộc cãi vã ấy mà nhiều người mới trở thành giáo sư và bác học hay sao? Ðó là cách không tốn mấy công sức mà vẫn có danh vọng, sống êm thấm mà vẫn được tất cả người kính nể. Tên tuổi lại còn được lưu truyền hậu thế nữa chứ! Nói của đáng tội, chứ ví thử không có họ thì làm sao chúng ta biết được một sự thật như Secmenđi sinh vào ngày nào giờ nào? Hay làm sao ta hiểu dược nhiều chân lý vĩ đại khác nữa! Cứ gọi là suốt đời ta cứ sống trong cảnh y mê tăm tối thôi! Loài người ta có tiến bộ được cũng chính là theo cách đó cả. Nghĩa là có một nhà bác học khác lắc đầu phê phán, ý nói “Không đúng, không đúng”. Thế là nổ ra một cuộc tranh cãi sôi nổi. Vị thứ ba bỗng xen vào và bảo “Cả hai ông đều sai tuốt.” Và khoa học cứ thế mà ngày càng tiến lên mãi.

- Trời ơi, anh nói chí lý quá! Ðúng là chỉ cần chịu khó suy nghĩ một chút là hiểu được ngay rằng, nếu không có các nhà bác học thì làm sao chúng ta phát hiện ra được chân lý. Té ra bấy lâu nay chúng ta vẫn sống trong cảnh u mê tăm tối mà không biết. Phải rồi, giá không có các nhà bác học thì có lẽ chúng ta chẳng biết cái cóc khô gì hết. Thậm chí đến nhà thơ Secmenđi sinh ngày nào có lẽ chúng ta cũng chẳng biết nữa, mà cứ tưởng ông sinh ngày mồng 4 tháng 5 mất! Ðúng là không thể sống mãi trong sự ngu dốt như vậy được. tui không thể hình dung nổi chúng ta sẽ làm được cái gì nếu không có các nhà bác học?!









 

nhphuc1995

New Member
Chuyện vợ chồng





Lẽ ra tui phải viết xong và nộp bản thảo từ tháng trước, nhưng tui không trả thành hợp đồng.

- Viết đi anh! Nào có ai quấy rầy anh đâu?

- Ðâu có, em yêu của anh. Ðáng ra anh vừa phải đánh dấu chấm hết cuốn sách, thế mà không xong... Chẳng hiểu sao anh lại không tập trung được tư tưởng em ạ... Ðầu óc cứ để đi đâu...

- Làm sao đầu óc anh lại để đi đâu?

- Chính anh cũng không biết nữa... Hôm nay anh sẽ ngồi nghiêm chỉnh. Trời mát mẻ và đầu óc anh cũng đang thư thái... May ra cũng xong đề cương...

- Thế thì anh ngồi viết đi... Có khi em quấy rầy anh cũng nên.

- Có gì đâu, em yêu dấu!

- Thế anh viết đi... Anh đại lãn thật!

- Hả?! Lạy trời hôm nay tui không bị chuyện gì quấy quả!

- Ủa! Anh nói thế nghĩa là thế nào?

- Chả thế nào cả... Anh không có ý gì đặc biệt... Anh chỉ cầu trời cho anh hôm nay làm được nhiều việc...

- Thế nhỡ đột nhiên hôm nay em chết thì sao?

- Sao em lại sang chuyện ấy?

- Thì sao!... Em chết thật đấy...

- Nói thế làm gì, vợ yêu của anh?

- Anh ơi, ngộ như em chết... Anh có lấy vợ khác không?

- Em yêu dấu! Ðừng nói với anh những điều như thế...

- Nhưng, anh thấy đấy, anh có trả lời được đâu. Mà từ lâu em vừa biết tỏng bụng dạ anh, biết anh nghĩ gì về em rồi.

- Em gái nhõng nhẽo của anh, tính nết em kỳ thật đấy.

- Mọi sự chỉ vì anh...

- Thì anh có làm gì em đâu, hả người ngọc? Anh chẳng bao giờ muốn em buồn cả!

- Thế anh trả lời em đi: sau khi em chết anh có đi lấy vợ khác không nào?

- Lạy thánh Ala!

- ái chà, thấy chưa! Em biết rồi mà... Anh vừa mới tự thú đấy nhé!...

- Tự thú? Tự thú cái gì kia chứ?

- Anh chả vừa nói cái câu “Lạy thánh Ala” là gì?

- Thì anh nói đấy... Nhưng làm sao nào?

- Em chết rồi tất nhiên anh không lấy ai được nữa... Bọn đàn bà nó ghê tởm anh, anh chả căm ghét cuộc sống gia đình là gì... Tưởng em không biết đấy hả! Em chết rồi dù anh có sống đến nghìn tuổi anh cũng không lấy được vợ... Nhưng chả lẽ anh ghê tởm cuộc sống gia đình là tại em à?

- Nàng tiên của anh, tại sao em lại cứ kiếm chuyện thế nhỉ? Ngay cả trong ý nghĩ, anh cũng chẳng bao giờ có những chuyện ấy... Em lau nước mắt đi, bình tâm mà nghe anh đây... Em chẳng thương em tí nào mà cứ làm mình làm mẩy vô ích... Em quả là không hiểu những lời anh nói...

- à à à! Nghĩa là anh không định nói những điều như thế chứ gì?

- Phải ạ!

- Nghĩa là nếu em chết anh sẽ tục huyền chứ gì?

- Trời ơi là trời, tui biết nói thế nào đây... Có thể...

- Anh cứ nói toạc ra xem nào...

- Bây giờ anh không thể đoán chắc điều gì... Nhưng có thể anh sẽ lấy vợ cũng nên!

- Tất nhiên là lấy vợ rồi... Làm như em không biết bụng dạ anh ấy!

- Trời đất ơi! Thánh Ala ơi! Cầu trời cho tui được bình tĩnh. Em làm anh rối cả ruột, em yêu ạ, chính anh cũng không biết anh nói gì nữa...

- Lấy vợ, đằng nào rồi anh cũng lấy vợ...

- Anh nói thế làm vui lòng em đấy thôi...

- Làm vui lòng em?! Ðầu tiên anh bảo không lấy, rồi sau lại bảo có lấy. Như thế mà bảo làm vui lòng em!

- Thánh Ala ơi! Con phải làm thế nào đây... Xin Thánh rủ lòng ân ưu. Thôi, nín đi em... lúc anh bảo anh không lấy vợ thì em cáu. Ðến lúc anh bảo anh có lấy vợ em cũng lại cáu. Thế em lệnh cho anh nói gì có phải hơn không?

- Thôi, em vừa đoán từ lâu là anh chán em rồi.

- Thiên thần của anh, tại sao em lại quyết đoán rằng anh vừa chán em.

- Thì anh bảo rằng anh không biết sau này có lấy vợ hay không chứ gì?

- Vâng, thì tui có nói!

- Thế là thế nào? Tức là anh bảo em rằng: Thôi cô có chết thì chết mau lên, cho tui còn liệu! Thế mà anh lại còn chối phắt đi được!

- Thôi thôi... tui im. tui không nói một lời nào nữa. tui xin rút lui tất cả ý kiến. tui chỉ xin cô đừng khóc nữa, tui van cô. Chúng ta ngồi im nhé. Thôi, nín đi, em yêu của anh!

- Ôi! tui khó thở quá, tui ngất đây... tui chết đây!









 

jomyolovejulyes

New Member
Hội cứu vớt gia đình





Khoảng nay mai ở Mỹ sẽ phải xuất bản một cuốn sách mà tui cam đoan là sẽ bán hết ngay lập tức. Tác giả của nó vốn là người tui quen biết từ lâu. Trong những lần gặp nhau... hay qua thư từ, ông vừa kể cho tui nghe nhiều về nội dung cuốn sách. Cách đây chừng hai tháng, ông còn gởi cho tui cả tập bản thảo đánh máy để tui xem và cho ý kiến. tui vừa trả lời ông rằng, tác phẩm của ông tất nhiên sẽ rất được hâm mộ, và được dịch sang tất cả thứ tiếng. Bởi cái chính là trong toàn bộ cuốn sách không hề có một chút gì gọi là bịa đặt của tác giả, mà trả toàn là những sự chuyện và tư liệu có thật. Tác giả chỉ thay đổi đi một số tên người, vì câu chuyện có liên quan đến nhiều nhân vật tai to mặt lớn thuộc giới kinh doanh và chính trị của Mỹ.

Nếu các bạn muốn biết, thì đây, tui xin tóm tắt lại nội dung cuốn sách :

Cách đây mấy năm, 6 thanh niên ở bang California có lập ra một cái hội bí mật. Họ muốn làm giàu, nhưng tất nhiên là phải nhanh chóng, chắc chắn và ít nguy hiểm. Vì thế họ bèn nghĩ ra cách bắt cóc vợ các nhà triệu phú và tỉ phú để đòi một khoản trước chuộc kếch sù. Không, họ trả toàn không phải hạng côn đồ hay du đãng gì, mà đều là những thanh niên tử tế hẳn hoi cả! Ba người thì tốt nghề đại học tổng hợp ra, người thứ 4 thì hãy còn là sinh viên, người thứ 5 làm nghề bán hàng, còn người thứ 6 làm nhân viên thư ký. Không những thế, họ lại còn tốt bụng và nhân đạo lắm: tuy chẳng ai bảo ai, nhưng cái ý định bắt cóc trẻ con là cả bọn không ai bàn đến! Họ chỉ bắt cóc người lớn thôi!

Nhưng họ hiểu rằng muốn bắt đầu một sự nghề gì cũng vậy, trước hết, hội phải có một số vốn. Vì thế họ quyết định ai có bao nhiêu trước thì đem lũy hết vào cho hội. Tuy vậy, họ vẫn phải đi vay thêm, vì biết trước là sẽ rất phải tốn kém với các vị khách hàng tương lai của mình. Với lại, chỉ ở những nước lạc hậu người ta mới có thể đi ăn trộm nhà băng hay bắt cóc người mà không cần có trước bạc gì cả. Chứ ở một nước văn minh và giàu có như nước Mỹ mà không có tiền, thì đừng hòng làm được trò trống gì.

Theo kế hoạch của họ, người đầu tiên bị bắt cóc là vợ một ông trùm tài chính, giám đốc nhà băng ở San Francisco. Họ đến bắt bà này, đưa về một biệt thự tại một vùng thôn quê hẻo lánh, rồi cho công bố trên báo chí, đài phát thanh và vô tuyến truyền hình rằng, trong thời (gian) hạn ba ngày, nếu nhà triệu phú nọ không nộp đủ 80000 đôla trước chuộc, thì vợ ông ta sẽ bị giết. Báo chí, phát thanh và vô tuyến truyền hình tất nhiên vừa loan báo ngay điều kiện đó. Nhưng vì chuyện bắt cóc người bây giờ xảy ra như cơm bữa, nên tin ấy cũng chẳng làm ai sửng sốt hay thương cảm nữa. Thời hạn ấn định vừa hết, mà nhà triệu phú vẫn im hơi lặng tiếng. Mấy anh chàng đi bắt người đâm ra khó xử: món hàng bán không trôi, quăng đi không được, mà giữ lại thì cũng dở. Vì trước nuôi mụ qúa tốn kém. Không những thế, mụ lại là một người đàn bà kênh kiệu đỏng đảnh hết chỗ nói. Mụ đòi hỏi đủ tất cả thứ: nào gương lược, phấn sáp, nào son, thuốc móng tay, nào thuốc xoa bóp, thuốc ngủ... Thần kinh của mụ đúng là không bình thường. Bây giờ, tự nhiên thả mụ ra thì không được. Chỉ có cách là phải giết đi. Nhưng giết thì đúng là mấy chàng thanh niên này không có gan. Mà thả mụ ra bây giờ thì tất cả chuyện sẽ vỡ lở và cảnh sát sẽ đến tóm cổ họ ngay. Chồng mụ thì vẫn cứ lặng thinh, không thấy đem trước đến chuộc.

Họ bằng quyết định phải đến gặp người chồng để điều đình. Sau khi suy nghĩ một lát, người chồng nói với họ: “Các ông đòi nhiều trước quá. Bà ấy không đáng giá như thế đâu!” Họ bằng lòng hạ giá xuống còn 50000 đôla “Không! Bà ấy vẫn không đáng giá đến thế!” Bọn người bắt cóc bảo ông ta: “Thôi được, giá cuối cùng là 40000”. “Giá như các ông bắt vợ tui cách đây 20 năm lúc tui vừa cưới bà ấy thì tui sẵn sàng chấp thuận ngay.” “Thôi, 30000. không kém một xu”. Người chồng vẫn chỉ nhìn họ lắc đầu. Giá 80000 hạ dần xuống còn 20000, rồi 15000... Nhà triệu phú vẫn lặng thinh. Những người đi điều đình nhắc cho ông ta nhớ rằng, vừa năm ngoái, ông còn dám bỏ ra 15000 cho “Hội bảo vệ những con mèo không nhà cửa”. Nhưng nhà triệu phú giải thích rằng, thứ nhất, là vì ông rất thích mèo, thứ hai, là vị hội ấy là một hội đứng đắn và trả toàn hợp pháp, nên số trước có thể lũy dần hàng năm, và chuyển từ số lãi nhà băng sang. Còn như mấy cái hội bất hợp pháp thì phải bỏ trước túi ra mà đóng.

Mấy chàng thanh niên lại quyết định giảm số trước xuống còn 10000 đôla, và cố gắng giải thích cho người chồng hiểu rằng, rút cuộc, họ chỉ yêu cầu ông bù lại cho họ khoản trước đã mất mà thôi: Họ vừa phải tốn kém vào vợ ông gần hết số vốn của họ... Người chồng không nói gì, chỉ buông một tiếng than và mời họ uống whisky.

Ra về tay không, các thành viên của tổ chức bí mật (an ninh) bàn định lại tình hình và quyết định hành động táo bạo hơn. Họ thả người vợ ra, nhưng ngay đêm hôm đó, bắt cóc người chồng và tuyên bố số trước chuộc vẫn như cũ, nghĩa là 80000 đôla. Nhưng thời (gian) hạn chuộc vừa hết, mà kết quả vẫn như lần trước. Vợ nhà triệu phú tỏ ra còn cứng rắn hơn cả chồng. Bà ta tuyên bố nhất định không chịu trả một xu nào! Những người bắt cóc đe doạ la nếu vậy, chồng bà ta sẽ bị giết. “tui không có quyền can thiệp vào kế hoạch riêng của các ông.” Bà ta trả lời như vậy bằng một giọng buồn rầu, nhưng mắt thì ánh lên tia hy vọng.

Trở về biệt thự, những người bắt cóc báo cho nhà triệu phú biết ông ta được tự do và muốn đi đâu thì đi. Nhưng ông này lại không chịu đi và bảo với họ: “tui muốn sống ở biệt thự này, hay thậm chí ở tù cũng được, miễn sao thoát được mụ đàn bà ấy.”

Cáu tiết, sáu chàng thanh niên xúm lại, túm lấy ông ta đẩy ra cửa. Nhà triệu phú hết sức chống cự và van vỉ :

“tui sẽ cho các ông 10000, 10000! Nhưng xin các ông cho tui ở lại đây!”

Nghe thấy thế, trong đầu những người sáng lập ra tổ chức bí mật (an ninh) bỗng nảy ra một ý nghĩ tuyệt cú cú diệu. Họ bằng lòng cho nhà triệu phú được ở lại đại bản doanh của hội, nhưng bắt ông ta phải nộp đủ 80000 đôla! Nhà triệu phú bằng lòng. Không những thế, ông ta còn thú thật với mấy chàng thanh niên tố bụng rằng, giá như tuần trước, họ đến nhà ông để khuyên ông đừng chuộc vợ về, mà nên thoát khỏi bà ta thì hơn, thì chắc chắn ông sẽ chẳng đắn đo gì mà trả ngay cho họ đủ số trước như thế.

Ngay tối hôm đó, những hội viên của hội lại đến thăm người vợ có chồng bị bắt cóc. Họ doạ bà ta rằng nếu bà ta không chịu trả 80000 đôla, thì họ sẽ thả đức ông chồng của bà ta ra ngay lập tức. Quả nhiên họ lại được ngay một món trước nữa. Của đáng tội, mấy hôm trước họ vừa phải chịu đựng cái tính khí bất thường của người đàn bà này.

Cái ý định đặt tên hội là “Hội cứu vớt gia đình” nảy sinh ra chính là từ đó, và hoạt động của 6 chàng thanh niên thông minh ở bang California ngày càng phát triển. Hội của họ dần dần có chi nhánh ở tất cả các bang khác, rồi sau bắt đầu có cả cổ phiếu riêng để bán. Ðồng thời, cái tên “Hội cứu vớt gia đình” cũng dần dần được thay thế bằng những tên khác nghe kêu hơn và lịch sự hơn, như “Hội tình nguyện”, “Hội từ thiện”... tuy rằng hoạt động của nó vẫn là bất hợp pháp, vì hội và khách hàng, tuy không ai bảo ai, nhưng cả hai đều muốn giữ bí mật (an ninh) tuyệt cú cú đối chuyện làm của mình. Hơn nữa, làm như thế họ còn đỡ được khoản thuế. Hoạt động của Hội cứu vớt gia đình cho đến ngày nay vẫn ngày càng phát đạt: trong khi phục vụ cho các ông chồng và các bà vợ, nó lấy được trước của cả hai.

Cuối cùng, tác giả cuốn sách còn cho biết thêm một rõ hơn đặc biệt của các vị khách đàn ông (kể cả các nhà kinh doanh lẫn các nhà chính trị) là trong khi sẵn sàng trả rất nhiều trước thuê người bắt cóc vợ mình, thì đồng thời (gian) họ cũng tình nguyện bỏ ra những số trước rất lớn để chuộc lại các cô thư ký bị bắt cóc. Ðiều này nói chung cũng dễ hiểu: chuyện mất đi những nhân viên có kinh nghiệm sẽ ảnh hưởng ngay và trước hết đến công việc...









 

Kolton

New Member
Giá không có ruồi





Lúc lên mười tuổi, nó bảo :

- Úi dà! Nếu tui cũng có cặp sách như những đứa khác, cũng có đồ chơi, có những quyển tranh đẹp như chúng, thì xem tui học giỏi không nào!... Ðây tui lại chẳng có gì cả! Thế thì làm sao mà học giỏi được!

Ðến năm 13, nó cũng có đủ sách, vở, bút, cặp và đồ chơi như những đứa trẻ khác. Nhưng nó học vẫn không được. Nó lại than phiền :

- Quần áo đẹp thì không có! Nhà cửa thì chật chội, cả mấy bố, mẹ và anh chị em tui phải ở chung một buồng. Thế thì học làm sao được! Giá tui được một cái buồng, một cái tủ sách và bàn học riêng xem! tui không học giỏi bằng mấy chúng nó ấy à!

Năm 18 tuổi, người ta dành cho hắn một cái buồng riêng.

- Học giỏi thế quái nào được, nếu đến tuổi tui mà trong túi chẳng có nổi lấy 10 lia! Muốn mua sách vở nhưng lại không có tiền.

Năm 20 tuổi, trong túi hắn lúc nào cũng vừa có ít nhất 10 lia, có khi còn nhiều hơn.

- Ôi! Mong sao học chóng xong để ra đi làm! Tốt nghề đại học rồi tui sẽ làm chuyện cật lực cho mà xem!... tui sẽ bắt đầu viết truyện... à không! Viết hẳn tiểu thuyết ấy chứ! Chao ôi! Ước gì tui chóng được ra trường.

Năm 24 tuổi, sau khi tốt nghề đại học, hắn than thở :

- tui không tìm được chuyện gì hợp ý nguyện cả, vì đầu óc lúc nào cũng bị ám ảnh bởi chuyện sắp phải tòng ngũ. Chỉ mong sao cái thời (gian) hạn tại ngũ chóng qua đi. Lúc ấy tui sẽ làm chuyện ngày đêm để cướp lại thời (gian) gian! Thế nào tui cũng phải viết một tác phẩm thật vĩ đại, để tất cả người phải nhắc đến tên tôi!... Chà, cái chuyện tòng ngũ tai ác này!...

Ðến năm 26, hắn hết hạn phục vụ trong quân đội.

- tui vẫn chưa thể nào bắt tay vào làm chuyện một cách thật sự được. Vì cứ quanh quẩn lo hai bữa ăn vừa hết ngày rồi. Khi nào người ta chưa có được một công chuyện đàng hoàng và một khoản thu nhập cố định, thì chưa thể nói gì đến chuyện sáng tác!

Năm 28 tuổi, khi vừa có công ăn chuyện làm tử tế, hắn kêu :

- Ðiều kiện thiếu thốn thế thì sáng tác thế quái cho được! Ít ra là phải có hai buồng và có máy thu thanh! Lúc nào làm chuyện mệt, mở máy ra nghe nhạc cho đỡ mệt, sau đó lại tiếp tục làm việc. Như thế tinh thần mới sảng khoái, làm chuyện mới có hiệu quả được chứ! Ôi! Giá tui có một chiếc máy thu thanh thì hay biết chừng nào?

Năm 29 tuổi, hắn tậu được một căn nhà hai buồng và sắm được một cái máy thu thanh. Nhưng tác phẩm mà hắn dự định từ bao nhiêu năm nay vẫn đứng nguyên tại chỗ.

- Chao ôi là cô đơn! - Hắn thở dài - Sự cô đơn làm cho lòng tui trống trải như một bãi sa mạc! Thử hỏi như thế làm sao tui có thể tìm ra cảm hứng sáng tác được! Ôi! Phải có một tia nắng nào sưởi ấm được lòng ta! Phải có một ngôi sao nào đem lại cho ta nguồn vui và nguồn sức mạnh! Phải có một người nào mà vì nó ta sẵn sàng làm chuyện quên ăn quên ngủ chứ!... Ai là người có thể làm thần tượng cho ta, có thể làm mục đích của đời ta? Ôi, tình yêu của ta! Người ở đâu?

Ðến năm 30 hắn gặp được nàng. Hắn yêu nàng và cũng được nàng yêu lại. Cuộc sống của hắn bắt đầu tràn đầy ý nghĩa. Nhưng cuốn tiểu thuyết mà hắn ấp ủ từ hồi còn niên thiếu vẫn chẳng nhích thêm được một dòng nào.

- Yêu đúng là một hạnh phúc tuyệt cú cú vời! - Hắn suy nghĩ - nhưng nếu cứ yêu mãi mà không cưới thì vẫn chưa thể an tâm làm chuyện được. Ta phải cưới thôi. Có lấy vợ rồi thì cuộc sống mới ổn định, mới có thể trả toàn yên tâm lao vào sự nghiệp. Chà, mong sao ta sớm cưới được nàng! Bấy giờ ta thề sẽ lao đầu vào sáng tác, không bỏ phí lấy một phút cho mà xem!

Năm 32 tuổi hắn cưới vợ. Cuộc sống vợ chồng của hắn hạnh phúc lắm! Nhưng không hiểu sao hắn vẫn không thể bắt tay vào cái sự nghề cả đời của hắn được. ấy là vì hắn lại tìm thấy những lý do thật là xác đáng - bây giờ trên vai hắn có cả một gánh nặng gia đình. Quanh năm suốt tháng hắn phải lo chạy vạy kiếm miếng ăn. Thế thì thì giờ đâu để hắn ngồi sáng tác nữa?

Năm 36 tuổi hắn được tăng lương. Nhưng ta hãy nghe hắn nói :

- Ðã đành là mình có nhà riêng đấy! Nhưng nhà cửa chật chội quá! Trẻ con lại suốt ngày nô đùa ầm ĩ, không sao làm chuyện được. Giá mình kiếm được ngôi nhà độ bốn, năm buồng thì tuyệt cú cú quá! Lúc ấy mình sẽ làm chuyện phải biết nhé! Phải xắn tay áo lên mà làm mới được!

Năm 38 tuổi hắn dọn đến ở một biệt thự năm buồng. Song tác phẩm của hắn vẫn không tiến thêm được một tý nào. Hắn vẫn chưa thể làm chuyện được. Nhưng phải đâu là lỗi tại hắn?

- Làm sao mà có thể sáng tác trong một ngôi nhà ở ngay giữa khu phố đông đúc ồn ào như thế?! Các người có giỏi thì sáng tác xem nào! Không! Mình cần có một nơi yên tĩnh, nếu dọn được đến một nơi yên tĩnh thì nhất định thế nào mình cũng làm chuyện được, mà làm ra trò chứ không phải đùa!

Năm 40 tuổi hắn dọn đến một khu phố tĩnh mịch. Ngôi nhà của hắn thật rộng lớn rãi và thoáng mát. Từ cửa sổ nhìn ra phong cảnh đẹp tuyện trần. Bây giờ chắc hắn phải bắt tay vào sáng tác thực sự được rồi chứ gì nữa? Vẫn chưa à? Tại sao vậy?

- Chà! - Hắn than phiền - Sáng tác gì được khi mà trong nhà không có những đồ vật đẹp! Không có những bức tranh quý, không có những bộ xalông êm, không có một cái bàn viết cho ra trò, không có những tấm thảm mịn! Muốn sáng tác thì mắt phải được nhìn những đồ đạc xinh đẹp, tai phải được nghe những điệu nhạc du dương chứ!

Than ôi! Không biết có ngày nào mình thực hiện được cái mơ ước ấy không?... Ðược thế, mình thề sẽ dốc hết sức ra mà làm việc, cho thiên hạ biết tay!...

Năm 42 tuổi hắn có được tất cả những thứ hắn mơ ước: những đồ đạc quí giá và tiện nghi đầy đủ. Nhưng chẳng hiểu sao hắn không tài nào tập trung tư tưởng vào công chuyện được. Tác phẩm của hắn vẫn không nhích thêm được chút nào.

- Trời ơi! - Hắn bảo thế - Các người có hiểu đâu trả cảnh của tôi! Các người cứ nhìn bên ngoài nên tưởng tui sung sướng, mãn nguyện lắm, không còn điều gì phải phàn nàn nữa... Mà kể ra tui cũng mãn nguyện thật, vì trước bạc lúc nào cũng rủng rỉnh, không lúc nào thiếu cả, lại được vợ đẹp con khôn, nhà cao cửa rộng lớn nữa. Ðồ đạc tronh nhà thì toàn loại quý và tiện nghi đầy đủ, thì giờ lại nhiều nữa này... Thế nhưng... phải mỗi cái tội là... ruồi! Ruồi nhiều quá! Ruồi không còn làm ăn gì được nữa! Nó cứ bâu vào người, cứ vo ve bên tai nghe sốt cả ruột, tư tưởng không sao tập trung được! Ban ngày không chợp mắt nổi vì ruồi, thành ra ban đêm không còn sức để thức mà sáng tác nữa. Giá không có ruồi thì tui làm chuyện phải biết nhé! Cứ gọi là làm như điên ấy chứ không nói chuyện!... tui thề như vậy! Nhưng... cái lũ ruồi khốn cùng kiếp!... tui không biết làm thế nào với chúng cả. Ðóng cửa lại thì nóng! Mà che rèm thì mất đẹp.

Các người bảo tui làm chuyện về mùa đông ư? Nhưng có thực là mùa đông không có ruồi không? Trời ơi! Không hiểu ai sinh ra tương tự ruồi làm gì không biết? tui chịu không hiểu nổi.

Năm nay hắn mới 42 tuổi. Vì thế chúng ta vẫn chưa hết hy vọng. Một ngày kia, khi tương tự ruồi bị tiêu diệt hết trên thế gian này, như điều hắn mơ ước, thì chắc chắn thế nào hắn cũng sẽ làm chuyện không ngơi tay để làm ra (tạo) ra cho thế giới cái tác phẩm vĩ đại của hắn. Ðấy, rồi các bạn xem!









 
Nhỏ và đẹp





tui bắt được một cuốn sổ tay dưới gầm bàn trong nhà. Nhưng hỏi người nhà thì không ai nhận. Ai cũng bảo: “Không phải của tôi!”

Cuốn sổ xinh xắn, bọc bìa xanh, có hàng chữ nổi mạ bạc trông rất đẹp. tui mở ra xem là của ai. Vừa đọc trang đầu tui đã thấy kinh ngạc. Ở đó có ghi tên, địa chỉ, số điện thoại của một ông to, ông rất to. Lật trang sau cũng lại thấy ghi lần lượt tên, địa chỉ, số điện thoại của ba nhân vật khác cũng rất có danh tiếng. Cứ thế tui giở hết trang này đến trang khác và nỗi kinh ngạc của tui mỗi lúc một tăng.

các bạn cứ nghĩ xem: trong nước có bao nhiêu nhà hoạt động chính trị tai to mặt lớn, bao nhiêu quan chức có thế lực, thì địa chỉ của tất cả các vị này đều được ghi vào sổ. Người kém vế nhất trong số đó cũng là một Tổng giám đốc. tui lại còn để ý thấy thêm một điều này nữa: các nhà hoạt động chính trị có tên trong sổ đều là những người hiện đang cầm quyền. Ai ở vào địa vị tui mà chẳng phải ngạc nhiên? Ðối với tôi, cuốn sổ ghi địa chỉ những người có thế lực thật chẳng khác gì một trái bm nổ chậm. Ðúng là có kẻ nào thù hằn vừa ném nó vào nhà tôi. tui chưa hình dung được cuốn sổ ghi địa chỉ những nhân vật tiếng tăm này có thể gây cho tui điều gì rủi ro. Nhưng có điều không nghi ngờ gì nữa là nó được ném vào gầm bàn tui với một ý đồ xấu xa. tui hoảng sợ vô cùng. Rất có thể, sắp có người bấm chuông gọi cửa ngay bây giờ, rồi bọn cảnh sát mặc thường phục sẽ ập vào nhà tui và bảo: “Ðưa quyển sổ đây!” Còn tui thì sẽ run như cầy sấy, hỏi lại: “Quyển sổ nào ạ?” Họ sẽ lục soát cănphòng chốngtui và tìm thấy ngay cuốn sổ dưới gầm bàn, như thể chính tay họ vừa đặt vào đấy vậy.

tui biết chắc tất cả việc sẽ xảy ra đúng như thế. Ðứa khốn cùng kiếp nào ném quyển sổ vào nhà tôi, hắn vừa đi báo cảnh sát! Rõ ràng la tui đã sa vào cái bẫy hết sức nham hiểm rồi!

Bọn cảnh sát vớ được cuốn sổ sẽ hỏi ngay: “Nào, nói đi! Anh ghi địa chỉ tất cả những quan chức lớn nhỏ vào đây để làm gì? Anh muốn lập hồ sơ theo dõi lý lịch cá nhân của họ à? Anh sửa soạn tống trước họ chăng? Hay anh định mưu sát?”

Lạy chúa! Lúc ấy tui biết trả lời họ ra sao? Mà dù tui có phân trần, thanh minh thế nào chăng nữa, chắc đâu họ vừa tin tôi?

Thôi, tui phải đem đốt ngay cuốn sổ rồi tung đám tan ra cho gió cuốn đi thôi!

Nhưng không biết đứa khốn cùng nạn nào vừa giăng bẫy đưa tui vào tròng mới được cơ chứ? Tối hôm qua tui có ba người bạn đến chơi. Trong bọn họ thì một người là giảng viên trường đại học, một người làm chuyện ở thư viện trường tổng hợp, còn người nữa là giáo viên văn học...

tui đang đút cuốn sổ vào lò sưởi nhà tắm để chuẩn bị đốt thì có chuông gọi cửa. Anh bạn Halit của tui đến.

tui quen anh vừa 20 năm nay, anh làm chuyện ở thư viện trường đại học tổng hợp, và là một trong ba người vừa ngồi chơi ở nhà tui tối hôm qua. Halit cũng đang hoảng hốt như tôi. Anh hỏi tui :

- Sao trông anh tái nhợt đi thế?

tui cũng hỏi lại anh :

- Này, nhưng cậu cũng làm sao vậy?

- Lạy chúa, anh có thấy cuốn sổ tay tui đánh rơi ở đây hôm qua không?

tui đưa cho anh quyển sổ :

- Quyển này phải không?

Anh nắm lấy tay tôi, reo lên :

- Giời đất ơi, đúng rồi! Thế mà tui cứ tưởng đánh mất ở đâu, lo không thể tả được!

tui dẫn anh vàophòng chốnglàm việc.

- Còn tui thì cũng được một mẻ hết hồn - tui thú nhận - Cậu hãy nói thật cho tui biết, cậu ghi từng ấy địa chỉ của những người có tai mắt để làm gì vậy?

Ðến lượt anh ngạc nhiên :

- Ô hay! Thế chả nhẽ anh chưa có quyển sổ ghi địa chỉ những người tên tuổi à?

- Chưa!

- Lạy Chúa, thế thì anh phải lập tức ghi ngay đi, rồi nhét nó vào túi ấy! Anh muốn biết tui viết những địa chỉ ấy vào sổ để làm gì phải không? Ðây này, tui sẽ nói cho anh nghe. Anh chắc biết tui vốn thích sưu tầm bút máy. Một số bút thì tui mua, còn một số thì người ta cho, trong túi tui có được đến mươi, 15 chiếc. Một hôm, tui đến khách sạn thăm một nhà thơ Ðức mới sang. Anh ta biết tui thích chơi bút máy nên tặng tui một chiếc. Vừa ra khỏi khách sạn là tui rẽ ngay vào một góc phố và không nhịn được “Ta phải xem cái bút thế nào đã!” - tui tự nhủ. Chắc anh biết trong túi tui lúc nào cũng có chiếc kính lúp. tui lấy kính ra soi cái ngòi và thấy nó có vẻ hơi thô. tui viết thử vào cuốn sổ mấy chữ tình cờ hiện trong óc: “Nhỏ và đẹp”. Thường tui vẫn mang theo một tờ giấy ráp mịn hạt để mài ngòi bút. Cái ngòi này nếu về nhà tui mài thêm tí nữa thì nét sẽ nhỏ và đẹp hơn. tui cầm lấy kính định xem lại cái ngòi một lần nữa, thì bỗng có ai nắm lấy hai vai :

- Anh đang làm gì vậy?

- tui ấy à? tui đang xem chiếc bút máy chứ có làm gì đâu!

- Thế đấy! Nghĩa là xem bút máy hả? Vậy chứ anh làm nghề ngỗng gì?

- tui ở trường đại học... - tui không kịp nói hết câu.

- Ái chà, nghĩa là giáo sư cơ đấy! Thưa ngài giáo sư, rất hân hạnh!... Chà!...

Một ngươi trong bọn họ thụi cho tui một quả vào sườn bên trái khiến tui loạng choạng.

- Thôi, alê, đi!

- Các ông xem lại cho. Chắc có sự hiểu nhầm gì đây!

- Ði!

tui lại bị quả đấm nữa vào sườn bên phải và đành phải bước. Biết làm sao được!

Chúng tui đi về bóp. tui bị đẩy vào một căn phòng. Nhưng chờ mãi mà không thấy ai đến. Lát sau có một tay bước vào :

- Ngồi xuống đất ấy! - Lão ta nói.

- tui không ngồi thế được! - tui đáp.

- Cái gì? Không ngồi thế được hả? Ái chà, ra cái điều ta đây giáo sư cơ đấy! Ghê chưa? Thôi, có gì trong túi bỏ hết ra đây!

tui đặt lên bàn tất cả tất cả thứ trong người: 14 chiếc bút máy, hai quyển sách, cuốn sổ tay, hai tờ giấy ráp mịn hạt. Lão ta chỉ vào những chiếc bút :

- Ðây là cái gì?

- Bút máy.

- Ra thế!... nghĩa là bút máy đấy! Ái chà, giáo sư mà lại! Oai quá nhỉ?

tui không sao nói xen được một câu để giải thích cho lão ta hiểu rằng tui không phải là giáo sư, mà chỉ là một nhân viên trông thư viện ở trường đại học thôi! Lão ta cầm lấy chiếc kính lúp :

- Còn đây là cái gì?

- Kính lúp!

- Ra kính lúp đấy! Chà, giáo sư! Chà!...

Thêm ba người nữa đến. Họ cũng xúm vào xem đồ vật của tôi. Một người cầm tờ giấy ráp lên hỏi :

- Cái gì thế này?

- Giấy ráp.

- Giấy ráp gì mà lạ thế? Nhẵn như không ấy! Anh định bịp ai vậy hả?

- Ðây là loại giấy ráp mịn hạt!

- Ra thế! Giấy ráp mịn hạt cơ đấy! Chà, giáo sư! Này, giáo sư này!

Vừa nói, lão ta vừa nện vào vai tui một cái. Xem chừng sự chuyện đâm ra lôi thôi.

- Thưa các ông - tui nói - chắc có sự hiểu lầm thế nào đây. tui không rõ tại sao các ông lại đưa tui về đây, chứ tui thì cả trường đại học ai cũng biết, nhà báo nào tui cũng quen. tui không làm gì đáng để các ông đối xử như vậy.

Một tay đang giở cuốn sổ của tui ra xem, quát :

- Im ngay!

Bỗng mắt hắn chợt sáng lên :

- Thế còn cái này là cái gì?

Hắn chỉ vào mấy chữ “Nhỏ và đẹp” tui viết trong quyển sổ để thử chiếc bút máy người ta vừa cho.

- “Nhỏ và đẹp” - tui nói.

- “Nhỏ và đẹp”? Hay nhỉ!

- Vâng, “nhỏ và đẹp”!

- Thế là cái gì?

- Chẳng là cái gì cả!

- Chẳng là cái gì thì anh viết vào đây làm gì?

- Ðể tui thử ngòi bút...

- Thế đấy! Ðược, nhưng sao anh không viết chữ gì khác mà lại chọn đúng chữ “nhỏ và đẹp”?

Quả tình nào tui có nghĩ gì đến chuyện ấy.

- tui không biết - tui nói - tự nhiên tui nghĩ ra mấy chữ ấy, thế là tui viết luôn vào...

- Thế đấy! “Nhỏ và đẹp”! Chà, giáo sư đấy! Chà... Chúng tui sẽ cho anh biết thế nào là “nhỏ và đẹp”! Các ông nghe thấy hắn bảo gì chưa? Hắn bảo tự nhiên hắn nghĩ ra đấy! Thế sao tự nhiên anh không nghĩ ra chữ khác?

Một người trong bọn họ bước lại chỗ cô thư ký đánh máy. Họ bắt đầu lập biên bản. tui sợ vã mồ hôi. Biết đâu những chữ “nhỏ và đẹp” tui tình cờ viết ra lại là mật (an ninh) mã của một tổ chức gián điệp thì nguy to! 14 chiếc bút máy, cuốn sổ tay, chiếc kính lúp, hai quyển sách, tờ giấy ráp mịn, “nhỏ và đẹp”! Ai mà chẳng phải nghi ngờ! tui bối rối không còn biết làm gì nữa. Trong lúc đang lập biên bản, một tay vẫn tiếp tục giở cuốn sổ của tui ra xem. Bỗng hắn dừng lại ở một trang, sau đó đưa trang này cho cả bọn xem. Họ thì thầm gì với nhau một lúc, rồi tình thế bỗng nhiên thay đổi hẳn. Người vừa xem cuốn sổ của tui đã chỉ cho cả bọn xem một chỗ ghi trong sổ.

- Xin lỗi ngài - Lão ta quay lại hỏi tui - người này đối với ngài là thế nào ạ?

- Ðấy là bạn học cũ của tui - tui đáp - Chúng tui gặp nhau hôm kia. Anh ta đưa tui đi ăn hiệu, cho tui địa chỉ và tui ghi vào đây.

Những điều tui nói trả toàn đúng sự thật. Quả tình tui có gặp một người bạn xa nhau vừa lâu. tui cũng không biết rằng anh ta là một Tổng giám đốc.

Gã cảnh sát vẫn đang cầm cuốn sổ của tui bỗng nở một nụ cười, xun xoe bảo :

- Chết chửa! Thế ra ông Tổng giám đốc là bạn thân của ngàỉ

- Ðúng thế... Hồi còn đi học chúng tui thường trêu chọc anh ấy.

- Thật hân hạnh quá! Ấy kìa, sao ngài không ngồi xuống? Ghế đây ạ! Xin mời ngài!

Sau đó, gã quay lại bọn kia :

- Ai bảo các anh dẫn ngài về đây hả?

Rồi quay lại phía tui :

- Xin mời ngài!

Chúng tui bước vào một cănphòng chốngbày biện sang trọng, tui đi trước, bọn họ theo sau. Họ mời tui ngồi vào chiếc ghế bành. Một tay nói :

- Hôm nay nóng quá. Ngài dùng một chút nước giải khát nhé?

- Ấy chết, xin các ông chớ bận tâm làm gì!

Tuy vậy nước giải khát vẫn được mang ra. Chúng tui chỉ còn lại hai người trong phòng. Bọn kia kéo nhau ra ngoài cả.

Người đang tiếp chuyện hỏi tui :

- Thưa ngài, ngài đến thăm chúng tui có chuyện gì không? Ngài có cần gì không ạ?

Thánh Ala ơi! Thế là thế nào nhỉ? tui có cần gì không à? Chả nhẽ không phải chính họ vừa vừa tóm cổ tui mà lôi về đây hay sao?

Nhưng bây giờ, giữa lúc họ đang đối xử lịch sự với mình như thế, mà lại đi bảo rằng mình bị lôi cổ đến và bị đánh thượng cẳng tay hạ cẳng chân, thì xem ra không tiện.

Vì thế nên tui đáp :

- tui đến... chẳng qua để hỏi thăm sức khỏe các ông thôi!

- Ôi, thật quý hóa! Chúng tui rất đội ơn ngài! Chúc ngài cũng được khỏe mạnh! Thật quả là vinh dự cho chúng tôi. Lạy Chúa! Ðược ngài đến thăm!

Tình thế không ngờ lại xoay chuyển một cách tốt đẹp như vậy. Nhưng dù sao, tui nghĩ cũng phải chuồn ngay, kẻo nhỡ đâu sự chuyện trở nên rắc rối.

- Các ông cho phép tui về! - tui nói.

Lão ta đứng lên tiễn tui ra tận cửa. tui bước thật nhanh để mau mau thoát khỏi chốn này, không dám nghĩ đến chuyện đòi lại bút máy, cuốn sổ và chiếc kính, vì sợ phải nhắc đến chuyện hiểu lầm vừa xảy ra. Thôi! Chả cần!

- Thưa ngài!... Thưa giáo sư! Ngài còn quên đồ đạc!

Một tên trong bọn bỗng chạy theo tôi, gọi. Hắn mang bút máy, tờ giấy ráp, cuốn sổ và kính lúp lại cho tôi.

- Thưa giáo sư, ngài là bạn của ông Tổng giám đốc thật đấy ạ? - hắn hỏi.

- Ðúng thế - tui đáp - Nhưng sao ông lại hỏi vậy?

- À, chả là dạo này đang có “mốt” như thế. Ai thấy người sang cũng muốn quàng làm họ cả. Ngài hiểu chứ ạ? Ðể lúc nào có chuyện cần thì bảo: “Ðây là bạn tôi!” và thế là thoát. Mà chúng tui thì làm sao biết được kẻ ấy có đúng là bạn thật hay không? Nhưng ngài thì đúng là bạn thật chứ ạ?

- Ðúng, tui là bạn thật.

Hắn chìa cho tui mẩu giấy.

- Thưa ngài, tui đã viết lai lịch của tui ra đây. Là đểphòng chốngxa như vậy. Nếu ngài có dịp gặp ông Tổng giám đốc thì... e hèm...

Kể đến đây, Halit bảo tui :

- Từ hôm ấy, cứ biết được địa chỉ của ai trong số những bậc tai mắt của ta là tui ghi ngay vào sổ. Ðến lúc tưởng mất quyển sổ, tui lo quá anh ạ! Có những địa chỉ này chẳng khác gì được bảo hiểm tài sản và tính mạng vậy. Anh cũng nên có một quyển sổ như thế mới được. Nhưng cần nhớ một điều là hễ có ai về hưu do sức khỏe hay bị cách chức thì phải lập tức xóa ngay tên khỏi sổ, nếu không thì có khi mang vạ vào thân đấy!... Thế thật anh không biết gì về những quyển sổ ghi địa chỉ những bậc có thế lực trên cõi đời này à?

- Không!

- Vậy thì hỏng to rồi người anh em ạ! Bây giờ ai cũng phải giữ cái của này trong túi áo đểphòng chốngkhi bất trắc thì giở ra. Vì có ai biết được điều gì sẽ xảy ra với mình lúc bước chân ra khỏi cửa? Ngày xưa thì có những tấm bùa hộ mệnh hay câu thần chú giúp người ta thoát khỏi ốm đau, tai họa. Bây giờ thì có sổ ghi địa chỉ thay cho những thứ ấy. Mà lại hiệu nghiệm hơn nhiều!...









 

Sugn

New Member
Chiếc gương kỳ diệu





Tại nhà Ðavút Xêiuva, chủ hãng buôn các đồ nhập khẩu có tổ chức một bữa cơm khách. Trong số những người được mời có giám đốc nhà băng “Labát” cùng người vợ trẻ và cô em vợ to béo của ông ta; nhà chính khách Khanda Iátma, một trong những nhân vật “bảo thủ hạng nhất” của chúng ta, cùng đức phu nhân không có con của mình; nhà đại điền chủ kiêm thu tô Mêđêni cùng cô thư ký có đôi mắt hạt nhãn là nàng Ipêch; nhà buôn Hátgi Ôxman Barua, một thương gia cỡ lớn của tỉnh Ađăng chúng tôi, cùng cô nhân tình là nàng Phưxtưca.

Từ chiếc máy thu thanh, tân khách bỗng nghe thấy giọng một phát thanh viên nói :

- Thưa quí vị thính giả! Ðến đây chúng tui xin tạm ngừng chương trình nhạc cổ điển Thổ Nhĩ Kỳ tối nay. Bây giờ mới quý vị nghe buổi phát hành thường kỳ “Những phát minh mới” Thuyết trình buổi này là một chuyên gia nổi tiếng, kỹ sư Mếchki Makinétgi.

Bà vợ trẻ của ngài giám đốc nhà băng Labát nhăn mặt :

- Sao tui ghét giọng cái thằng cha này thế!

Nhà buôn Ôxman năn nỉ :

- Van bà! Xin bà cho phép chúng tui được nghe cái mục này. Tuần trước anh ta vừa nói về cách làm bông bằng giấy đấy.

Trên máy thu thanh, kỹ sư Mếchki Makinétgi bắt đầu câu chuyện :

“Thưa quý vị! Trong lúc chúng tui bắt đầu buổi phát thanh hàng tuần “Những phát minh mới” này, thì tại thành phố Nguyên tử ở bên Mỹ người ta cũng bắt đầu khánh thành một nhà máy nguyên tử mới, hoạt động theo chương trình “Nguyên tử phục vụ con người”. Từ nhà máy này, những tia sáng nguyên tử sẽ được phát đi khắp thế giới. Phát minh mới về năng lượng nguyên tử này sẽ là một sự kiện kỳ diệu làm chấn động toàn nhân loại. Khi tia sáng nguyên tử chiếu vào các tấm gương soi ở bất kỳ nơi nào trên trái đất, thì lập tức tất cả những hình ảnh vừa được soi vào gương, kể từ lúc nó được chế làm ra (tạo) đến nay, sẽ lần lượt tái hiện trên mặt gương.

Chẳng hạn, nếu ở nhà quý vị có một tấm gương mà quý vị vừa dùng từ 20 năm nay, thì khi gặp tia sáng nguyên tử này chiếu vào, hình ảnh của tất cả những người vừa soi vào gương từ 20 năm nay sẽ nối tiếp nhau xuất hiện lại trên mặt gương.

Các cuộc phát thí nghiệm tới nay vừa hoàn tất và vừa cho những kết quả mỹ mãn. Như vậy, nhờ phát minh mới này, quý vị có thể được sống lại tuổi thơ, được nhìn lại tuổi thiếu niên hay ôn lại những kỷ niệm thời (gian) yêu đương của mình.

Từ sau 9h sáng mai, xin quý vị nhớ đứng ra trước gương!”

Bà vợ trẻ của viên giám đốc nhà băng Labát vỗ tay :

- Trời ơi! Tuyệt cú quá! Ở nhà tui có chiếc gương tui đã soi từ hồi bé. Vậy là ngày mai tui sẽ được xem lại cả một quãng đời của tôi.

Khách khứa rờiphòng chốngăn sangphòng chốngkhách, tụm lại thành từng nhóm, bắt đầu bàn tán sôi nổi về cái phát minh mới kỳ diệụ

Khanda Iátma, nhà chính khách bảo thủ hạng nhất, ghé vào tai nhà thu tô Mêđêni thì thầm :

- Ông bạn ạ! Thế thì cái phát minh mới này quả là kỳ diệu! Nó sẽ giúp ta nhớ lại nhiều sự kiện vừa quên. Có một lần ở đồn cảnh sát tui bị người ta nện cho một trạn nhừ tử, ông tha lỗi cho cách nói hơi thô tục của tôi... Lúc chuồn được khỏi đó, tui lập tức đến ngayphòng chốnggiám định y khoa để xin giấy chứng nhận là bị đánh, rồi mang ra tòa kiện. Nhưng các ông ở tòa chẳng thèm xem xét kẻ nào vừa đánh tôi, mà rồi không hiểu thế nào họ lại kết luận là chính tui đánh tui mới tức chứ!

Nhà thu tô bảo :

- Nhưng mà bác Khanda ạ. Chuyện ấy có liên quan gì với chuyện cái gương nàỷ

- Ấy chết! Liên quan quá đi chứ lại! Vì lúc tui bị đánh, tui nhìn thấy trên đường có treo một cái gương. Bây giờ thì tất cả việc sẽ được khám phá ra hết.

- Ừ phải - Mêđêni hưởng ứng - Còn tui thì nhờ những chiếc gương thần kỳ này tui sẽ phải vớ được ít nhất là bốn, năm vạn bạc.

- Làm thế nào mà vớ được?

- Có gì đâu! Ở nhà tui có một cái tủ gương. Và chuyện tui một dạo dan díu với con gái lão Kaliavi là cô ả Antưguyn thì chắc bác vừa biết rồi.

- Chuyện ấy thì ai mà chả biết!

- Lão bố nhất định không chịu gả con gái cho tôi, còn cô ả thì cũng quên phắt ngay những tình cảm của mình. Nhưng giờ thì không xong với tui đâu! Lão ta sẽ phải gả con gái cho tui và tui sẽ trở thành triệu phú cho mà coi!

- Nhưng ông định làm cách nào mới được chứ?

- tui và cô ả Antưguyn vừa từng ân ái với nhau bao nhiêu lần ở nhà tôi, ngay trước cái tủ gương ấy. Sáng mai tất cả những cảnh yêu đương ấy sẽ diễn lại trong gương. tui sẽ mang cái gương đó cho lão Kaliavi xem, ông hiểu chưa? Thế là lão ta sẽ phải gả con gái cho tôi, bằng không thì phải chuộc lại cái gương ấy.

- Thế lão ta không chịu thì sao?

- Thì càng hay! tui sẽ mang cái gương ấy cho tất cả người xem. Hay không kém gì xem hát ấy chứ! Và tui sẽ thu được ối tiền! Hoan hô những cái gương kỳ diệu!

Vợ nhà buôn hàng nhập khâu to nhỏ với ả nhân tình của ngài Hátgi Ôxman là Phưxtưca :

- tui vẫn không sao quên chàng được!

- Chị bảo ai? Kaplan ấy à?

- Ừ, Kaplan ấy! Thế mà chàng thật chóng thay lòng đổi dạ. Nhưng thôi, ngày mai tui sẽ đứng ra trước gương để được sống lại những giây phút êm đềm với chàng.

- tui cũng phải trả thù lão già nhà tui mới được! tui sẽ đưa gương cho hắn xem, để hắn thấy rằng hồi tui mới quen hắn, tui còn trẻ và xinh đẹp như thế nào! Thế mà bây giờ, chắc chị biết đấy, hắn ta vừa chán tui rồi. Tất cả bọn đàn ông đều thế cả!

Khách khứa ai nấy đều sung sướng khi bàn tán về cái phát minh mới.

Cô nàng Phưxtưca luôn mồm nói :

- Ước gì chóng đến ngày mai nhỉ!

Cô em vợ béo nục nịch của viên giám đốc nhà băng phụ họa thêm :

- Vâng, ước gì chóng đến ngày mai! Em thấy sốt ruột quá! Trời ơi, những kỷ niệm thời (gian) quá khứ của em! Tuổi thanh xuân của em!

Người thì mơ ước được gặp lại trong gương hình ảnh người mẹ vừa khuất của mình, người thì muốn được thấy lại thời (gian) thơ ấu.

Bỗng ngoài cửa có tiếng chuông, rồi một vị khách mới bước vào. Ðó là Sakháp Giênabétđia, một bác sĩ phụ khoa nổi tiếng. Mặt ông ta tái nhợt như người chết.

- Có chuyện gì vậy, bác sĩ? Anh bị ốm hay sao thế? - Vị chủ nhà hỏi.

Viên bác sĩ lắp bắp :

- Các vị không nghe nói gì cả à? Các vị không biết tin gì hay sao?

- Tin gì cơ, anh Sakháp? Có tin không hay à?

- Ðài phát thanh vừa nói xong mà! Ngày mai, nhờ chuyện phát minh ra tia sáng nguyên tử nên tất cả các gương sẽ hiện lại toàn bộ những hình ảnh từ trước đến nay! Thế mà các vị không hay biết gì cả hay sao?

Mọi người bật cười ngạc nhiên :

- Thế thì tuyệt cú quá chứ sao, hả bác sĩ?

Bác sĩ Sakháp kêu lên một cách chán ngán :

- Trời ơi! Té ra các vị mất trí cả rồi!

Ðoạn ông kéo phái nam giới sang một phía.

- Cái phát minh mới này đúng là giết tôi. Trongphòng chốngmổ của tôi, trước bàn mổ, chắc các vị cũng biết đấy, có một tấm gương lớn.

- Thế thì sao?

- Thế thì chết tui chứ còn sao nữa! Các vị còn chưa hiểu hay sao? Tất cả những vụ phá thai, nạo thai và còn nhiều chuyện khác nữa sáng mai thế là vỡ lỡ hết cả...

Ðám các ông e sợ nhìn nhau.

- Ừ nhỉ, bỏ mẹ thật!

- Thế mà mình không nghĩ ra!

- Nếu thế thì ê mặt quá nhỉ!

- Thậm chí phải nói đó là tội ác mà bọn mình đã... Ấy chết, xin lỗi, nghĩa là tui không có ý nói thế...

Nghe các ông xì xào to nhỏ, đám các bà cũng đâm nhốn nháo. Bà vợ ông Ðavút Xôinva rên rỉ :

- Hạnh phúc gia đình tôi, cuộc sống êm ấm 20 năm nay của vợ chồng tui thế là hết! Ngày mai chồng tui sẽ biết hết tất cả chuyện. Ðầu tiên là chuyện với một tài xế của ông ấy, rồi sau là với một tài xế khác... Tất cả sẽ diễn ra trước gương...

Cô nàng Phưxtưca than thở :

- Thì ai mà ngờ được có ngày những cái gương kia lại làm vỡ lở tất cả chuyện...

- Còn tui thì sáng nào cũng lục túi, lấy cắp trước trong ví ông ấy... Sáng nào cũng thế... Lúc ông ấy còn đang ngủ... Ðến bây giờ ông ấy vẫn chưa hay biết gì. Nhưng ngày mai thì thôi... ông ấy sẽ biết hết.

Ngài Hátgi Ôxman cứ lẩm bẩm một mình :

- Lẽ ra mình không nên dan díu với con hầu gái ấy. Mẹ kiếp! Ðúng là ma dẫn lối quỷ đưa đường!...

Những tiếng kêu “trời” vang lên mỗi lúc một to. Sau đó không khí trongphòng chốnglại im lìm như chết.

Bỗng giọng nói ồm ồm của bác sĩ Sakháp phát tan bầu không khí im lặng :

- Thưa các vị, chả lẽ các vị vẫn chưa tin rằng cái phát minh mới này, cái thứ gương kỳ diệu này sẽ làm tan vỡ hạnh phúc của chúng ta hay sao?

- Không, không... Ðúng là những cái gương này sẽ giết tất cả bọn ta!

Viên bác sĩ nói tiếp, dằn từng chữ :

- Thế là rõ rồi! Những chiếc gương bị tia sáng nguyên tử chiếu vào sẽ phá vỡ hết trật tự xã hội.

Khắpphòng chốnglại nhao nhao cả lên :

- Ðúng thế! Nhưng chúng ta biết làm gì được!?

- Ðối phó cách nào bây giờ?

- Có cách gì cứu vãn được không nhỉ?

Ông bác sĩ tuyên bố :

- Chỉ có một cách thôi, là phải đập vỡ hết các tâm gương đi!

Ngài Mêđêni đế thêm :

- Thế chưa chắc, phải nghiền vụn chúng ra mới được!

Cô thư ký có đôi mắt hạt nhãn, có giọng nói thỏ thẻ, cũng lên tiếng :

- Phải cho vào cối mà giã thành bột ấy!

Rồi khách khứa giải tán ai về nhà nấy.

Suốt đêm hôm đó trong thành phố đâu đâu cũng vang lên tiếng kính vỡ. Người ta thi nhau bỏ gương vào cối mà giã.

Sáng ra những người phu hốt rác sửng sốt trước một cảnh tượng chưa từng thấy: khắp nơi chà nào cũng ngổn ngang những đống gương vỡ, phố xá thì tràn ngập bụi kính.

Ðúng 9h sáng, giọng người phát thanh viên vang lên trong tiếng nhạc :

“Xin quý vị lưu ý: Loại gương soi tốt nhất thế giới là gương mang nhãn hiệu “Kỳ diệu”. Dùng gương này quý vị có thể nhìn thấy ảnh của mình chỉ những lúc nào quý vị soi vào nó mà thôi! Xin quý vị nhớ cho nhãn hiệu của nó là “kỳ diệu”... Gương “kỳ diệu”...”

Trong vòng một ngày chủ hãng gương “Kỳ diệu” vừa trở thành triệu phú!









 
Cơn ác mộng





Ðài phát thanh Xtămbun vừa chấm dứt chương trình phát thanh. Nghĩa là lại hết một ngày cũ bắt đầu một ngày mới. Ðêm nay tui có bao nhiêu chuyện phải làm: phải viết xong hai truyện ngắn, một bài châm biếm và trả lời thư yêu cầu của một tạp chí. Những thứ này sáng mai là họ lấy. Ngoài ra còn phải đọc ba tạp chí do nhà bưu điện đưa đến và một cuốn sách mỏng nữa. Nhưng cuối cùng tui chỉ viết xong có mỗi một truyện ngắn. Vì hôm nay tui thấy trong người mệt mỏi quá.

tui vừa sắp sẵn một xếp giấy để viết truyện ngắn thứ 2, nhưng ý tưởng bay đi đâu hết cả. tui giở lại cuốn sổ tay, hy vọng có thể tìm ra một ý nào đó trong những mẩu ghi chép cũ, nhưng cũng chẳng ăn thua. Không có ý nào có thể phát triển thành truyện ngắn được.

tui bỗng cảm giác đói. Cái bệnh tui nó như vậy. Nghĩa là cứ khi nào không viết lách gì được, là y như lại nghĩ đến chuyện ăn uống hay một chuyện linh tinh gì đó. tui leo lên gác. Trong nhà im lặng như tờ. Mọi người vừa ngủ cả. tui mò xuống bếp. Cơm canh vừa nguội ngắt. Ai mà đi hâm được?... Cuối cùng tui kiếm được đĩa cá sácđin, mấy quả cà chua, một ít mỡ và dăm miếng dưa.

Sau đó tui lại quay về bàn làm việc, ngồi bóp trán suy nghĩ. “Mình buồn ngủ hay sao thế này?” tui nghĩ vậy, rồi dần dần thiếp đi thật. tui lại còn nằm mơ nữa. tui mơ thấy hình như tui lạc đến một nước nào xa lạ. tui không biết đích xác đó là nước nào. tui bước vào một gianphòng chốngrộng mênh mông. Không hiểu các bạn thế nào, chứ tui thì tui tin rằng những cái gì thấy trong mơ thì không bao giờ có trong thực cả.

Xung quanh chiếc bàn dài kê ở giữaphòng chốngcó nhiều người đang ngồi. tui đến đây với một trọng trách. tui không biết chính xác tui đang ở đâu và người ta đang làm gì ở đây, nhưng không dám hỏi, vì sợ người ta cười, bảo tui là anh ngố, không biết cả chỗ mình đang ở là chỗ nào nữa! Vì thế tui cứ phải xem tất cả vậy xung quanh mà cố tự phán đoán lấy. Có lẽ tui đang ở Châu Mỹ, nhưng có thể tui đang ở Châu âu cũng nên...

Người ta đang hội đàm. Ðại biểu nước tui chỉ có độc mình tôi. Trông người nào cũng bệ vệ.

- Rất hân hạnh được đón tiếp ngài! - Một vị đại biểu nói với tôi.

- Thank các vị! - tui đáp.

- Ngài sẽ cho chúng tui được biết tình hình đất nước ngài chứ?

tui run quá, nhưng rồi cũng tự động viên: “Có gì mà run! Ðây chỉ là mơ thôi mà!” Nhưng mơ thì mơ, chứ nhỡ ra...

- Vâng. tui sẵn sàng kể cho các vị nghe tất cả những gì tui biết.

- Nước ngài đang ở tình trạng chậm tiến có phải không? - Người ta hỏi.

tui bỗng thấy ngột thở. Lạy thánh Ala! tui biết trả lời với họ thế nào bây giờ? Nếu tui bảo: “Vâng. tui ở nước chậm tiến đến!” thì có nghĩa là tui tự thóa mạ nước tui trước mặt các quan khách quốc tế. Và theo luật hình, như thế tui sẽ bị khép vào tội khinh quốc thể. Nhưng nếu bảo: “Không phải. Sao lại chậm tiến? Nước tui tiến ghê gớm ấy chứ lại!” thì hóa ra tui nói dối! Nhưng thôi. Thà nói dối còn hơn bị kết tội khinh quốc thể. Nói dối thì chẳng bị tội gì cả.

tui bèn hét lên :

- Ai bảo các ngài thế? Ðó là điều bịa đặt và xuyên tạc, thưa các vị! Xin các vị chớ quên rằng chúng tui có rất nhiều kẻ thù. Chúng luôn luôn tìm cách tuyên truyền nói xấu chúng tôi.

Mọi người há hốc mồm kinh ngạc.

- Nghĩa là chúng tui đã nhận được một thông tin không chính xác?... - Một người nào đó nói, nhấn mạnh từng chữ.

- Vâng, tất nhiên rồi!

- Chúng tui hiểu. Các ngài là dân tộc rất tự trọng, nên khi người ta gọi các ngài là “chậm tiến” thì các ngài tức giận. Nếu vậy, chúng tui sẽ không dùng cái tên ấy nữa, mà sẽ thay bằng mấy chữ “chậm phát triển”. Như vậy chắc ngài thấy ổn chứ?

- Không! Như thế cũng không được! Chúng tui không phải là những người chậm phát triển, mà trái lại, chúng tui là những người rất, rất chi là phát triển!!

Một lần nữa, tất cả người lại sửng sốt, quay sang xì xào với nhau.

- Thế hiện nay ở nước ngài còn nhiều thành phố chưa có điện không?

Nếu tui bảo còn, thì rõ ràng tui tự bôi nhọ nước tôi. Chà! Quỷ bắt tất cả các người đi!

- Không! Ở nước chúng tôi, từ các thành phố lớn cho đến các làng mạc xa xôi hẻo lảnh, nơi nào cũng có điện hết!

- Hoan hô!... Hoan hô!... Tuyệt cú thật!

- Nhưng nghe nói giá điện bên nước ngài đắt lắm thì phải? Bao nhiêu trước 1 kw nhỉ?

- Cái gì? Ðiện ấy à? Ðiện bên chúng tui đắt ấy à? Nhưng bên nước tui điện có mất trước đâu!... Không mất tí nào cả! Lại còn mất trước điện nữa có mà chết!

- Tuyệt cú quá nhỉ!... Trứ danh thật!...

tui hả hê lắm: tui đã khéo giới thiệu nước tui với quan khách quốc tế. Ước gì báo chí đăng lại những lời tuyên bố của tui để đồng bào tui thấy được tui đã biết cách tuyên truyền có lợi cho đất nước như thế nào!

- Người ta đồn rằng trước nhà bên nước ngài rất cao. Nhà cửa thì khan hiếm... Một người dân trung lưu phải mất đến nửa số thu nhập vào trước nhà. Phải thế không?

Một tiếng nói bên trong thúc giục tôi: “Nói đi! Nói hết sự thật đi!” tui bảo nó: “tui sợ lắm! Mọi người sẽ phản đối tôi”. Giọng nói vẫn năn nỉ: “Sợ gì! Ðây chỉ là mơ thôi mà! Họ có thấy giấc mơ của anh đâu. Họ có biết đâu những điều anh nói! Cứ nói hết sự thật đi.”

Mồ hôi tui vã ra như tắm. tui lấy khăn lau trán, rồi cười lớn :

- Hahaha!... Té ra các vị hình dung nước tui như vậy đấy! tui không thể tuyên bố gì thêm về chuyện này. Chỉ cần chúc cho cái bọn độc mồm độc miệng chết quách đi cho rồi! Dân nước tui không hề biết thế nào là nhà cửa khó khăn cả! Các vị nghe rõ chưa? Cũng như ở tất cả các nước văn minh, chúng tui được sống trong những ngôi nhà rất đẹp, tiện nghi đầy đủ, mà chỉ mất có 10% thu nhập thôi!

- Thế còn các công chức?

- Các công chức thì được phân nhà tuỳ theo số người trong gia đình. Nói chung là họ được ở rất rộng lớn rãi, và trước nhà phải trả rất ít, đến mức gầncoi nhưđược cho không.

- Nghe nói bên nước ngài, những người chủ nhà không cho các gia đình có con thuê nhà có phải không?

- Ha ha ha! Láo toét! Ai nói với các vị thế? Bên chúng tui người thuê nhà thậm chí không biết mặt mũi chủ nhà là ai cả. Chỉ biết mỗi cái gọi là Hội đồng nhà cửa thuộc Toà thị chính thôi! Khi nào cần nhà, người ta chỉ chuyện đến đó mà nó đại khái như: “tui cần một căn nhà năm buồng. Nhà tắm có lát gạch men xanh, chứ màu hồng thì không thích hợp. Vì màu hồng ảnh hưởng đến thần kinh vợ tôi.

- Chà! Nước thế mới gọi là nước chứ! - Các đại biểu trầm trồ thán phục - Hoan hô! Hoan hô nước ngài!

tui được thể càng ra sức khoe khoang tâng bốc nước tôi.

- Nhưng nghe đâu đời sống bên nước ngài khó khăn lắm thì phải. Những người lương thấp sống rất thiếu thốn. Ngay tầng lớp trung lưu cũng thế?

- Lại còn có chuyện thế nữa kia đấy! Thưa các vị, các vị nhớ cho rằng dân nước tui mà sống khó khăn thiếu thốn, thì đó chỉ là theo giọng lưỡi của báo chí nước ngoài mà thôi. Ðồng bào chúng tui rất nhân đạo, nên hết sức thông cảm với những người cùng kiệt khổ. Dân nước tui không hề biết đến những khó khăn về đời sống, và nói chung là họ không biết đến bất cứ khó khăn gì! Cầu thánh Ala cho đồng bào tui đừng bao giờ biết đến những chuyện đó! Còn tầng lớp trung lưu ở nước tui sống rất hạnh phúc. Họ có nhờ tui chuyển đến các vị lời chào đặc biệt. Họ còn dặn tui khi đến đây phải cải chính các tin đồn nhảm mà các vị nghe phải.

- Thế còn các vấn đề như nạn thất nghiệp, điều kiện lao động vất vả và lương công nhật thấp kém thì sao?

- Trời ơi các vị! - tui kêu lên - Các vị muốn tin ai? tui hay những lời đồn nhảm nhí linh tinh?

- Tất nhiên chúng tui tin ngàị

- Nếu vậy các vị hãy nghe đây: Trước hết tui xin nói về công nhân: Công nhân bên nước chúng tui sống rất sung sướng, các vị có hiểu không? tui không biết có nước nào công nhân được hưởng lương cao như công nhân nước tui không? tui chắc là không! Không có nước nào cả! Lương công nhân nước tui cao đến nỗi họ không biết tiêu gì cho hết. tui xin tiết lộ với các vị một điều bí mật: nếu người công nhân của chúng tui tích lại số trước thừa của mình, thì chỉ trong một tháng anh ta có thể xây được cả một nhà máy! Nhưng anh ta cần nhà máy làm quái gì? Cái gì anh ta cũng có đủ rồi.

- Chà! Chà!... Thế mới gọi là nước chứ!

Ôi! Giá hãng thông tin nước biết được chuyện tui ca tụng nước tui và đưa tin cho tất cả tất cả người biết về giấc mơ này của tui thì hay biết chừng nào!

- Thế vấn đề giáo dục ở bên ngài ra sao? Người ta bảo 80% dân số nước ngài còn mù chữ có đúng không?

- Bậy! Ở nước tui ai cũng biết đọc biết viết hết! Mà còn biết nhiều đến nỗi người ta chán không muốn đọc muốn viết nữa. tui đố các vị tìm thấy ở nước tui một người nào mù chữ đấy! Các giáo sư, nhà báo, nhà văn của chúng tui hay là làm nghề viết, hay làm nghề đọc. Số người làm được cả hai nghề tuy không nhiều lắm, nhưng văn sĩ và độc giả ở bên tui cứ gọi là vô thiên lủng! Trường học ở nước tui nhiều đến nỗi muốn làm đường sá mới thì phải phá bớt trường đi mới có chỗ mà làm. Còn giáo viên thì không đếm xiết được! Ði đâu cũng gặp toàn giáo viên là giáo viên!

- Thế sao bảo các ngài phải xin nước ngoài viện trợ cho các tấm lều bạt để làm lớp học?

- Ha ha! Ðó là chúng tui nói đùa thế thôi! Vì không muốn để các nước khác biết sự hùng mạnh của chúng tôi, nên chúng tui phải vờ làm ra vẻ thiếu trường học.

- tui thấy hình như không phải thế! - Một vị đại biểu đứng phắt dậy - tui có đọc báo của các ngài. Trong những bài châm biếm của ngài, tui thấy ngài luôn luôn kêu về nạn thiếu trường sở và thiếu giáo viên.

tui cười lớn:

- Ha ha ha! Thế mà các ngài cũng tin là thật ư? tui viết thế chẳng qua cốt làm ra (tạo) ra cái chuyện trái ngược mà thôi! Vì dân nước tui rất thích những chuyện ngược đời. Nếu viết rằng tất cả chuyện đều tốt đẹp cả thì họ lại không thích. Vì thế muốn làm ra (tạo) ra những chuyện trái ngược, tui phải viết rằng ở nước tui thiếu trường học vân vân... Có thế họ mới mua báo. Nhưng đó là cách tuyên truyền trong nước thôi, còn tuyên truyền ra nước ngoài thì lại khác...

- Nghe nói bên nước ngài đường sá mở mang cũng chậm lắm thì phải. Những con đường hiện có thì rất tồi!

tui vừa ngán ba hoa lắm rồi, nên đứng dậy bảo :

- Thôi đủ rồi, tui phải đi đây!

- Ði đâu? Ngài không thể đi đâu cả, vì ngài đang nằm mơ kia mà!

Nghĩa là họ cũng biết đây là một giấc mơ!

- Thôi, các ngài buông ra để tui đi!

- Nhưng ngài định đi đâu?

- Về nước tui chứ còn đi đâu?

tui định tiến ra cửa, nhưng bị tất cả người chặn lại, dồn vào góc phòng.

- Buông tui ra! - tui hét lên.

- Ngài đang nằm mơ, ngài không thể đi đâu cả.

các bạn vừa từng gặp những cơn ác mộng nên chắc biết: trong cơn mộng mị, lúc sợ quá, bạn định bỏ chạy, nhưng chân bỗng ríu lại, muốn thét thật to lên, nhưng tiếng tự nhiên mất hẳn. Lúc này chính tui cũng đang ở trong tình trạng như thế. tui muốn bỏ chạy mà chân không sao cử động nổi.

- Chúng tui muốn hỏi ngày một câu nữa - Một người khác đứng dậy bảo - Ở nước các ngài có tự do hay không?

Sợ quá, tự nhiên tui nói không thành tiếng nữa.

- Hừm... hừm... hừm... - tui cứ ú a ú ớ. Tiếng nói bị tắt trong họng.

- Ngài nói đi chứ! Ở nước ngài có tự do hay không?

tui tự khích lệ: “Có quái gì mà sợ! Dù sao đây cũng chỉ là mơ thôi. Ta chẳng sợ ai hết.” Nhưng sao tui vẫn thấy run quá. Giọng nói bên trong lại thì thầm giục tôi: “Ðúng rồi! Ðây chỉ là giấc mơ thôi!”

- Nói đi! Nói đi! Có tự do ở nước ngài hay không? - Mọi người lại nhao nhao giục tôi.

Cuối cùng tui cũng lấy lại được tiếng nói. tui lắp ba lắp bắp :

- Có!... Có nhiều... Nhiều lắm!....

- Mọi thứ tự do đều có chứ?

- Các ngài muốn hỏi những thứ tự do gì?

- Tự do báo chí chẳng hạn!

- Ồ, cái đó tất nhiên là có rồi! Tự do gì chúng tui cũng có hết! Chúng tui có đủ các thứ tự do. Cả tự do báo chí nữa! Muốn bao nhiêu cũng có. Nhưng thôi, các ngài cho tui đi đi!

- Nghĩa là ở nước ngài có đủ các thứ tự do?

- tui vừa trả lời rồi mà: Có đủ hết!

- Tốt lắm! Nhưng nghe nói luật báo chí cũ ở nước ngài vẫn còn có hiệu lực. Thế thì đó là cái tự do gì?

Ðến phải biến thành hơi nước thì mới thoát khỏi tay họ được! Trong giấc mơ, người ta thường hay bay. tui giang hai tay như đôi cánh định bay, nhưng bị cái gì như cục chì giữ chân lại, không sao rời khỏi mặt đất được. Chắc tại tui ăn no quá nên nặng bụng, chứ không thì tui đã bay bổng như chim rồi!

- Thế nào? Có đúng là luật báo chí cũ vẫn còn hiệu lực không? Ngài trả lời đi!

- Ừ, đúng là vẫn còn cái luật ấy đấy! Nhưng chuyện gì đến các ông nào! Cái luật ấy còn, nhưng chúng tui không áp dụng... Cũng như chúng tui vẫn còn giữ những khẩu đại bác mà Phatích vừa dùng chiếm lại Xtămbun, nhưng chúng không bắn được nữa. Thế thì sao? Chả lẽ cũng phải phá đi à? Sở dĩ chúng tui cố ý không thay luật báo chí phản dân chủ cũ, chẳng qua là muốn để nhắc nhở tất cả người rằng họ vừa từng phải sống một thời (gian) kỳ nghẹt thở như thế đấy! Nhưng bây giờ chúng tui đã có tự do báo chí và nhiều thứ tự do khác nữa. Tự do ở nước chúng tui nhiều đến mức người ta không biết dùng chúng làm gì nữa!

Thế còn tình hình kinh tế? Nghe nói ngân sách của các ngài bị thiếu hụt nhiều phải không? Xin ngài cho bíêt ý kiến về vấn đề này.

tui lại bắt đầu vã mồ hôi. Biết trả lời thế nào bây giờ đây, lạy thánh Ala?

- Chả lẽ tui cứ mơ mãi, không bao giờ tỉnh lại hay sao? - tui kêu lên tuyệt cú vọng.

- Nếu ngài không nói thật thì không bao giờ ngài tỉnh lại được đâu!

Nhưng nói thật thì tui lại bị mang tội nói xấu Tổ quốc mất! Ôi, sao mà khó xử thế này hả trời!

- Tình hình kinh tế nước tui không đến nỗi tồi tệ như các vị tưởng đâu. Ý tui muốn nói là nó... rất... tốt đẹp, rất rực rỡ. Rực rỡ đến nỗi có thể làm người ta lóa mắt!... Còn ngân sách thì lúc nào cũng rất thăng bằng.

tui còn định nói nhiều nữa, nhưng bị tất cả người ngắt lời.

- Thôi được rồi! - Một vị ngồi dự nói - Chúng tui mời ngài đến đây cốt để ngài cho biết rõ sự thật, để nếu thấy cần thiết, thì tổ chức quốc tế sẽ giúp đỡ các ngài, chẳng hạn ưnh cấp vốn, hay cho ngài vay tiền... Nhưng vì tất cả tất cả thứ ở nước ngài đều tốt đẹp cả, nên chúng tui thấy không nên phải giúp đỡ gì nữa. Thôi xin chúc ngài tất cả điều may mắn. Tạm biệt ngài.

Ðến lúc này tui mới chợt tỉnh và hiểu ra rằng hóa ra người ta phái tui đến đây là để xin viện trợ của nước ngoài.

- Tốt quá! Nhưng sao các ngài không cho tui biết trước? Nếu biết trước, có phải tui đã tuyên truyền nước tui theo cách khác rồi không?

- Thôi xin chào ngài!

tui khóc nức lên vì đau xót. Thì các bạn cứ nghĩ xem. Giá tui dám nói hết sự thật, thì có phải nước tui đã nhận được trợ giúp của các nước rồi không? Thế nhưng tui lại sợ nếu nói thật thì sẽ bị kết tội nói xấu quốc gia. Thế là tui đã bỏ lỡ một dịp may hiếm có!

Tiếng khóc làm tui bừng tỉnh. Trời vẫn chưa sáng.

tui bật đèn lên. Ðúng là trong mơ tui đã khóc thật. tui lau những giọt nước mắt, rồi ngồi ghi ngay lại cơn ác mộng này.

Chả lẽ đêm cứ tối mãi và trời không bao giờ sáng được hay sao?









 
Tội đồ bất đắc dĩ





Chiếc ô tô buýt chật ních người. Nhưng giữa đám người chen chúc ấy vẫn nổi bật lên một vị khách mà thoáng trông cũng biết ngay là đi nhầm xe. Chỗ của ông ta lẽ ra là trong xe cấp cứu mới phải. Vì tay trái ông ta bị buộc treo lên vai bằng một dây vải trắng, đầu thì băng bó chằng chịt, một mắt thì sưng húp lên, còn mắt kia thì thâm tím khắp xung quanh. một tay bám lấy thanh vịn, ông khách vừa có xoay xở tìm cách đứng cho thuận tiện, vừa rên rỉ luôn miệng. Thấy vậy, một hành khách đang ngồi tỏ ý thương hại, đứng dậy nhường chỗ cho ông ta.

- Thank ông! - Ông khách mình đầy thương tích rên rỉ nói.

- Ủa! Bác Xenman đấy à? Thế mà tui không nhận ra! - Người khách vừa đứng dậy nhường chỗ kêu lên - Bác bị làm sao thế này? Ðứa nào đánh bác hay sao mà mặt mày thâm tím hết cả lên thế kia?

- Bác Xaraphettin đấy à? Chào bác! Chà, bác hỏi làm gì cho tui thêm buồn... Cái thân hình tui nó thế này vừa hai tháng nay rồi...

- Rõ khổ! Thế nhưng bác làm sao vậy?

- Lạy Chúa! Xin người thương xót con! Con trả toàn kiệt sức mất rồi...

- Thế các đốc tờ bảo thế nào ạ? Bác bị bệnh gì vậy?

- Ôi dào! Ðốc tờ mà làm quái gì! Ðốc tờ cũng chả chữa được bệnh của tôi... Lạy thánh Ala! Sao người lại bắt con chịu cái cực hình như thế này! Mà lại không bắt các kẻ thù của con phải chịu!... Ôi, khắp người tui đau như dần, đến chân tay cũng không cử động nổi nữa!

- Nhưng dù sao bác cũng phải đi bệnh viện cho đốc tờ họ khám xem thế nào chứ!

- Bệnh viện gì! Ðến nhà thương điên thì có! Chẳng giấu gì bác, tui bị mắc một cái bệnh truyền nhiễm!...

Nghe nói thế, Xaraphettin bỗng lùi hẳn người lại.

- Chết! Thế sao bác còn đi ra phố làm gì?

- Chao ôi! Nói thì dễ đấy, nhưng nào có ngồi nhà được cho cam! tui bị lây cái bệnh thằng con tui mất rồi...

- Thế cậu nhà cũng bị ạ?

- Nó còn bị nặng bằng mấy tui ấy chứ! Bệnh của nó vừa thành mãn tính rồi. tui bây giờ cũng vậy. Có mỗi cái trường phổ thông mà nó không làm sao tốt nghề được! Năm lớp 9 vừa bị đúp rồi, lên lớp 10 cũng lại thế nốt! Mà cũng chỉ tại cái trò bóng bánh chết tiệt! Ðã bao nhiêu lần tui lạy van nó, bảo: “Mày quăng ngay cái trò bóng bánh khốn cùng nạn ấy đi cho tao!” Nhưng nó lại trả lời tôi: “Con không quăng được!”. Nó tự hủy hoại cái thân xác nó thật là ghê gớm. Ðến nỗi tui với mẹ nó không còn dám nghĩ đến chuyện mong cho nó học giỏi nữa, mà chỉ lo làm sao cứu vãn lấy tính mạng của nó mà thôi! Mỗi lần đi đá bóng về trong nó cứ như vừa đi đánh giặc vậy! Ðội ơn thánh Ala! Bây giờ nó vừa bị gãy chân trái rồi, nên không đá bóng được nữa. Thấy nó bị gãy chân, tui sung sướng quá, vì không thế thì thể nào có ngày nó cũng bị người ta đánh chết. Ôi, xin Chúa hãy tha thứ cho chúng con! tui và mẹ nó thường bảo: “Thôi cho nó gãy chân cũng được! Chỉ cốt sao nó thoát khỏi cái bệnh truyền nhiễm ấy mà còn sống là mày rồi!” Nhưng từ khi bị gãy chân, nó lại quay sang mê xem đá bóng quá thể! Hôm nào có đá bóng thì có trời mà giữ được nó ở nhà! Ðá ở đâu nó cũng mò đi xem cho bằng được. Ðá ở Ăngcara là nó nhảy đi Ăngcara, đá ở Iđơmia là nó tếch đi Iđơmia! Nhưng cái chuyện nó cứ đi đi về về như con thoi ấy cũng chưa hẳn là nhục! Nhục nhất là mỗi lần đi về trông nó lại phờ phạc không còn ra hồn người nữa! Chân đứng không vững, giọng thì khản đặc lại! Có đến hàng bao nhiêu lần tui bảo nó, là đừng có la hét như điên ấy cho nó khản tiếng ra. Nhưng nó bảo tôi: “Bố chỉ được cái ngồi nhà mà nói! Bố cứ thử ra sân mà không la hét xem nào!”... Có hôm nó đi xem về thế nào mà đầu vỡ toác ra, còn hôm khác thì mũi bị giập nát và mắt thì sưng húp lên. Giá bảo nó còn đá bóng như hồi xưa mà bị như thế thì khả dĩ còn hiểu được, chứ đằng này nó chỉ xem người ta đá thôi cơ mà!... Nhưng nó lại cãi: “Ai đi xem mà chẳng phải đánh nhau! Bố cứ thử ra đấy mà ngồi im xem nào!” Có lần chúng tui phải đến bốt cảnh sát để nhận nó về. Những người đi xem đá bóng đánh nhau dữ quá, cảnh sát phải giải tất cả về bốt. Có đến hai lần chúng tui phải khiêng nó từ xe cấp cứu xuống!

“Trời ơi! Sao con không thương xót lấy cái thân con một chút, mà lại đi hủy hoại nó thế hở con?”, tui nói với nó như vậy. Nhưng nó bảo rằng tuy cũng biết thế, nhưng nó không làm thế nào được! Nghe nó trả lời như vậy mà tui thấy điên tiết! tui bèn bảo nó: “Thôi được! Hôm nào mày dẫn tao đi với mày để tao xem cái trò bóng bánh của mày nó như thế nào?”

Và thế là tui đi với nó đến sân vận động Mitkhatpasa. Trận đấu bắt đầu. Lẽ cố nhiên, lúc bắt đầu tui chưa cổ vũ cho đội nào cả. Ðội nào thắng hay thua đối với tui cũng thế cả thôi. tui cứ ngồi quan sát khán giả và cười một mình. Bất ngờ, có một quả sút vào lưới y như một mũi tên. Cú sút thật là tuyệt cú vời! Chính mắt tui được nhìn thấy! Nhưng lão trọng tài ăn gian không cho tính điểm. tui tức không chịu được. Thấy tất cả người “ê” trọng tài, tui cũng bắt chước “ê!... ê!...” rõ to. Bỗng tui nghe thấy có ai bảo trọng tài không cho ăn quả ấy là đúng. “Không đúng! - tui cãi lại - Quả ấy sút rất đẹp! Nhưng trọng tài ăn gian! Ðúng là lão ta ăn đút lót rồi!” Gã kia bảo tôi: “Ðồ con lợn! Mày có biết có những cú sút như thế nào không hả?” tui bảo hắn rằng bố hắn là đồ con lợn thì có! Vì mới đi xem lần đầu, nên tui đâu có biết tính tình của cái dân ham mê đá bóng. Thế là chưa kịp nói hết câu, tui đã bị hắn thoi cho một quả bằng trời giáng, ngã quay ra đất. May mà có những người ngồi bên cạnh can được, chứ không thì tui đã no đòn với thằng cha ấy rồi! Còn ông con tui thấy tui bị đánh cũng chả thèm để ý gì cả, cứ mải xem và luôn mồm kêu: “Xem kìa! Sắp tung lưới nữa đây này!”

Kể từ lúc đó, cái đội mà tui bị ăn đòn vì nó, bỗng trở thành cái đội yêu mến của tôi. Bây giờ mỗi khi bóng đến chân các cầu thủ đội này là tui không ngồi im được nữa. Tay tui bắt đầu vung lên, như chuẩn bị đánh nhau vậy. Còn chân thì đá tứ tung không còn biết vào đâu nữa. Giá lúc này bóng mà rơi vào chân tôi, thì có lẽ nó phải bắt tít lên tận mặt trăng chứ chả chơi! Vung vẩy chân thế nào, tui đá bốp một cái vào giữa lưng cái ông ngồi trước. “Ấy chết, xin lỗi bác!” tui vội nói, nhưng ông ta đáp lại với cái giọng của một người hiểu biết: “Không hề gì! Chuyện ấy là thường!”. Một lúc sau thì chính tui lại bị một cú đá vào lưng nảy đom đóm mắt. Bấy giờ tui mới hiểu rằng ở trên sân vận động thì không cái gì là không thể xảy ra được!

Những cú đấm, cú đá cú huých từ bốn phía cứ thế thỉnh thoảng lại giáng vào đầu, vào lưng. Nhưng cũng chẳng ai thèm để ý làm gì! Ấy là lúc tất cả người vừa ham xem quá mất rồi! Bóng ở tít tận ngoài sân cỏ, mà mình ngồi đây, cứ anh bên cạnh mà sút thật lực. Mà lạ cái lúc ấy cũng chẳng ai thấy đau cả. Sau đó... bác Xaraphettin ạ, đội của tui lại sút tung lưới một quả nữa, nhưng thằng cha trọng tài lại không cho ăn. Lần này thì tui không còn nhịn được nữa. “Ðuổi cổ trọng tài ra sân!” tui gào lên như điên, không còn biết gì đến xung quanh nữa! Chân tay tui run cả lên. Bên cạnh tui là một ông bán nước chanh. tui cứ vớ lấy những chai nước của ông ta mà ném vào lão trọng tài. May mà đó là những chai nước chanh, chứ không phải lựu đạn!... Chẳng ai còn buồn nhìn ra sân cỏ nữa, người nào cũng quay sang choảng nhau loạn xạ. tui túm được cổ một thằng bé và cứ thế bóp làm nó suýt nghẹt thở. Thánh Ala, đúng vô tình mình có thể trở thành kẻ giết người là vì thế! Khốn nạn cho thằng bé, nó cứ gào lên, bảo rằng cũng ủng hộ cái đội của tôi. tui vừa buông thằng bé ra thì có một thằng cha cao lêu đêu bỗng vật ngửa tui ra mà đè lấy đè để. tui kêu to gọi thằng con tôi, nhưng cái thằng giời đánh còn đang mải nện nhau với lão trọng tài ở trên sân. tui gọi cảnh sát, nhưng cảnh sát cũng đang choảng nhau. Cả khán giả lẫn cầu thủ cũng đang đám đá nhau túi bụi. Thôi được, để tui hỏi cái thằng cha đang đè lên người tui xem hắn cổ vũ cho đội nào? Té ra hắn cũng cổ vũ cho đội của tôi! Phải khó khăn lắm tui mới thoát khỏi đôi chân gọng kìm của hắn, vì hắn ghì tui chặt quá, sợ để tui thoát ra thì không tìm được ai để đánh.

Mãi một lúc sau, tất cả người mới trở về trật tự, và trận đấu mới lại tiếp tục được. Ðể cổ vũ các đấu thủ, bây giờ, bắt chước tất cả người, tui cũng bắt hét to: “Hoan hô! Hoan hô!” Hét được một lúc thì giọng tui khản đặc lại. tui bèn quay sang gõ vào cái hộp sắt tây của ông ngồi đằng trước. Ông này mang cái hộp đi cũng là để cổ vũ các cầu thủ. Nhưng đến khi trên sân hai cầu thủ bỗng xông vào nhau đấm đá túi bụi, thì cảnh tượng mới thật là hỗn loạn. tui bị một thằng cha nào đó tung bổng lên cao. Thú thật, chưa bao giờ tui nghĩ mình có thể bay cao đến thế! Sau đó... sau đó thế nào thì tui không hay biết gì nữa! Chỉ biết lúc tỉnh lại thì vừa thấy mình đang nằm trong nhà thương.

- Thế là suốt từ hôm đó bác vẫn chưa bình phục được? - Xaraphettin hỏi.

- Vâng, vì đến chủ nhật sau tui lại đến sân vận động. Chả là đội của tui chơi mà! Làm sao mà ngồi nhà được! Nói thì dễ đấy, nhưng hôm ấy cứ thử ngồi nhà xem có được không? Có mà lấy dây thừng trói chân anh lại, thì anh vẫn cứ chuồn đi được! Ôi, sao mà người tui đau thế này!...

Bỗng từ cánh tay băng bó của Xenman có một vật gì rơi ra.

- À, cái hộp sắt tây đấy mà! Ðể tui gõ vào nó khi nào không thể gào được nữa - Xenman cắt nghĩa cho tôi, khi tui nhặt chiếc hộp đưa cho bác ta.

Ô tô dừng lại, Xenman đứng dậy, rên rỉ nói :

- Thôi chào bác, bác Xaraphettin!

- Không dám, chào bác! Bây giờ bác đến khám đốc tờ chứ?

- Ấy chết! Trận hôm nay mà bỏ thế nào được! Chà! Lạy Chúa! Chỉ mong sao cho tui đừng đến muộn!









 

Các chủ đề có liên quan khác

Top