Yong

New Member
Một điều hơi lạ, trong chuyện đào luyện con người, người ta bất mấy quan tâm đến môn tâm lý học. Trong chương trình học vấn, người ta bất đếm xỉa đến nó hay chỉ dạy phớt qua. Có lẽ người ta nghĩ rằng những lớp triết học mà một số ít sinh viên ban trung học có dịp theo đuổi, là những hành lý đầy đủ để họ xông pha trên trường đời. Ngoài ra người ta phó thác họ cho đời chỉ dạy.

Theo ý kiến một vài nhà giáo dục, chúng ta nhồi nhét vào trí óc của trẻ em quá nhiều tri thức. Chúng ta muốn nhào nặn khối óc của chúng trở thành một bộ bách khoa toàn thư “sống”, nhưng chúng ta quên dạy chúng cái khoa học cốt yếu, quên trao cho chúng cái chìa khóa có thể mở các cánh cửa: tâm lý học.

Ngoại trừ bị giam hãm suốt đời trong một phòng chốngthí nghiệm hay trong một xưởng máy, chúng ta luôn luôn cần nhờ đến người khác để áp dụng những điều hiểu biết của mình hay đối phó với sự thờ ơ, ghét vơ của họ.

Nên chúng ta dốt đặc về tâm lý học, nếu chúng ta bất hiểu về những định luật bất dịch chi phối những thị dục của con người, nếu chúng ta bất đặng dẫn dắt bởi những chân lý vừa từng thí nghiệm, thì với hiểu biết của chúng ta rất có thể đưa chúng ta tới thất bại. Chúng ta có thể nói bất sợ lầm rằng: sự hiểu biết của tất cả người có đắc dụng chăng là tùy thuộc sự thấu đáo về tâm lý của họ.

Kiến nghiệm và khoa học:
Đành rằng, kinh nghiệm của sự đời cũng có thể giúp chúng ta nhận xét để hiểu biết người. Thường gần gũi với người cùng loại, chúng ta có thể phán đoán về họ, nếu chúng ta có chút ít tiềm năng về chuyện đánh giá con người.

Nhưng chúng ta đừng lầm lộn chuyện áp dụng thực tiễn một khoa học với tiềmo cứu những nguyên tắc của nó. Cái kinh nghiệm chúng ta thâu rút khi chung đụng với đời có thể hợp thành một phương pháp kinh nghiệm. (Phương pháp kinh nghiệm là phương pháp chỉ được căn cứ vào những kinh nghiệm, bất chịu tìm hiểu nguyên do, khác với phương pháp thực nghiệm căn cứ trên những thí nghiệm khoa học. Thí dụ Đông y phụ thuộc vào phương pháp kinh nghiệm và Tây y sau khi trải qua giai đoạn kinh nghiệm, vừa tiến đến giai đoạn thực nghiệm). Dù bất có ý khinh rẻ phương pháp kinh nghiệm, chúng ta cũng phải nhận thấy nó có lắm bất tiện. Muốn dùng đặng nó chúng ta phải trả một giá khá đắt: phải trải qua những lỗi lầm, đau thương, phải mất bao nhiêu thời (gian) giờ, bao nhiêu cố gắng. Đó là chưa kể muốn áp dụng đặng những kinh nghiệm ấy chúng ta phải có đôi chút tiềm năng trời nhiên; trái lại, phương pháp thực nghiệm căn cứ trên những nền tảng khoa học có thể giúp ích cho một số đông người có những tiềm năng tầm thường.

Ở ngoài đời, chúng ta vừa từng thấy có người văn hóa rất kém (mà chúng tui đã đặt cho họ cái tên hơi bất công là “những người sơ đẳng”) vừa chiếm đặng những đất vị tiềm quan trong xã hội. Có nên vì đó mà kết luận rằng văn hóa bất cần thiết để thành công?


Có lắm tay ngang thiếu học chuyên môn những cũng cạy cục rất tài để có thể ráp nỗi một bộ máy không tuyến truyền thanh rắc rối. Tuy bất biết qua về lý thuyết nhưng nhờ có mó tay vào thực hành nên họ cũng có thể bàn về “tần số”, về “cuộn xen”, về “máy phát sóng”… một cách khá rành rẽ. Có phải vì thế mà chúng ta nên cho rằng muốn học về không tuyến điện bất nên phải học qua phần lý thuyết? Chắc chắn là bất ai sẽ nghĩ như thế, vì ai ai cũng thấy rõ, một tay ngang thiếu cơ sở khoa học mà ráp nổi bộ máy truyền thanh ấy, ắt vừa mất bao nhiêu thì giờ, bao nhiêu dọ dẫm và bao nhiêu nhẫn nại mới có thể đạt đến đích, đó là chưa kể hắn phải có nhiều tài quan sát. Một kỹ sư điện học, trái lại chỉ cần vài giờ suy nghĩ là có thể ráp xong máy ấy nhờ áp dụng những hiểu biết về lý thuyết mà ông ta vừa thu thập được khi học ở trường.

Biết người:

Bí quyết của thành công, trong đời sống cũng như doanh nghề gồm hai chữ “Biết Người”. Ở đây chúng ta bất nên hiểu hai chữ “thành công” với cái nghĩa hẹp hòi là thâu đoạt được nhiều trước của, nhiều danh vọng, mà nên hiểu rộng lớn là sự tiến bộ về tri thức cũng như về vật chất, là sự trả thành một cách hợp lý cái nhiệm vụ mà đời sống vừa vạch cho mình.

Một người bán hàng, một thương gia (nhà) dù sẵn có nhiều tiềm năng thể chất hoạt động tâm thần cũng chưa ắt vừa dễ thành công nếu họ thiếu đức mẫn tiệp, thiếu hiểu biết về tâm lý học để có thể gợi sự thèm thuồng của khách hàng.

Một kỹ sư khôi nguyên ở trường bách khoa xuất thân rất có thể thất bại trong những công trình của mình, nếu họ bất biết gì về cá tính của những nhân viên làm chuyện dưới tay họ.

Một doanh nghề có thể suy sụp dù rằng được điều khiển bởi một viên giám đốc có tài, nếu ông ta lầm lỗi trong chuyện tuyển chọn những nhân viên cần thiết giúp ông ta làm tròn nhiệm vụ.

Một tay cuộc chê đi chào mời khách hàng bảo hiểm nhân mạng, dù rằng có biết rõ sự ích lợi về mặt xã hội của chuyện bảo hiểm, cũng chưa ắt vừa có thể khuyến dụ khách hàng ký hợp cùng nếu hắn bất biết cách trình bày những lý lẽ một cách khéo léo để cho khách hàng gật đầu.
Một người có thể có tài viết văn, nhưng làm báo lại rất dở nếu họ bất hiểu tâm lý quần chúng. Một họa sĩ dù có sẵn trời tư cũng cần thấu đáo cá tính của người mẫu mới mong đạt được sắc diện của người ấy nổi. Một nghị sĩ phải thấu hiểu cử tri của mình. Một trạng sư: những thân chủ của mình. Một y sĩ: những bệnh nhân của mình. Một sĩ quan: những quân sĩ của mình. Một vị thuyền trưởng: đoàn thủy thủ của mình. Chỉ có nhân viên thu thuế là… bất cần hiểu những tên dân đen.
Trong đời sống thực tiễn, những cuộc xào xáo trong gia (nhà) đình, những xích mích giữa bạn bè, những bất mãn do người giúp chuyện bất tín gây ra, những thất vọng về đường tình duyên thường có nguyên do bởi sự dốt nát về tâm lý học.

Như chúng ta vừa thấy, bất luận trong ngành sinh hoạt nào, chúng ta cũng cần biết rõ cá tính của những người mà chúng ta có liên lạc gần hay xa.

Nghiên cứu về tâm lý học chẳng những giúp ích chúng ta rất nhiều trong phạm vi chức nghiệp, ngoài ra nó còn giúp chúng ta thâu đoạt nhiều kết quả thiết thực trên đường giao thiệp.

Ngày nay, tâm lý học là một khoa học có thể truyền dạy cũng như bao nhiêu khoa học khác. Với một bộ óc thông minh trung bình người ta cũng có thể học và hiểu nó. Nó cũng bất bắt buộc người học phải có số vốn về triết học. Nó căn cứ trên những yếu chỉ và những nguyên tắc có lẽ còn giản dị hơn môn hình học hay vật lý học. Người vừa có một cơ sở tâm lý học sẽ dễ mà rút tỉa những cái hay trong mớ kinh nghiệm mà đời sống sẽ đưa đến cho họ sau này. Họ sẽ dễ thông cảm, mau hiểu người cùng loại hơn cũng như viên kỹ sư điện học dễ mò ra những bí quyết của không tuyến điện hơn một tay ngang chỉ phụ thuộc vào mớ kinh nghiệm.

Lối văn “triết học”:

Nói cho đúng, chuyện đọc sách tiềmo cứu về tâm lý học thường dễ làm cho người dù hiếu học đến đâu cũng đâm ra chán nản. Nản vì “lối văn triết học” mà phần nhiều tác giả sách này quen dùng, lối văn mà A. Abalat vừa chỉ trích gắt gao trong mấy tác phẩm bàn về nghệ thuật viết văn. Kể ra “lối văn triết học” này có thể so sánh với “lối văn sở cẩm” mà André Thérive vừa từng chế giễu. Và có khi nó còn tệ hơn, vì trong lối văn sau này, những danh từ dùng sai nghĩa song người ta còn có thể đoán được chứ đọc “lối văn triết học” thì chẳng khác gì đọc sấm ký, bởi tác giả thường khéo che đậy một cái trống bất to tướng dưới một lớp danh từ khúc mắc có vẻ khoa học.

Đành rằng văn của Bergson (Nhà triết học Ly Lạp) cũng tối mò song ít ra chúng ta còn thưởng thức đặng cách bố trí chặt chẽ những ức thuyết rất" mới "kỳ của ông. Dù vậy, tui cũng mạn phép trách ông điều này là ông vừa không biết làm cho một người chỉ có óc thông minh trung bình hiểu đặng tư tưởng ông. Muốn hiểu ông, phải đọc qua những sách diễn giải tư tưởng ông.

tui vốn nghi kỵ những lối văn chuyên môn dành riêng cho từng khoa học. Vì người ta rất dễ lạm dụng nó để lòe đời và như vậy người ta chỉ cần học qua một mớ thuật ngữ là có thể bàn đến nhiều vấn đề không lý dưới cái vẻ sành sỏi.

Anatole France nói rất đúng: “Sự dốt nát sở dĩ có là do trong ngôn ngữ chúng ta còn lắm danh từ nghĩa bất được đích xác”.

Trong quyển “Luận Về Trí Năng Con người” nhà lớn tư tưởng Locke vừa nói: “Muốn cho người ta thâu nhận những chủ nghĩa bay lý hay kỳ hoặc, bất có cách gì hay bằng bao phủ những lý thuyết ấy dưới một lớp danh từ tối nghĩa, mù mờ hay bất định rõ nghĩa”.
tui tin rằng người ta có thể bàn giải nhiều vấn đề mắc mỏ bằng một lối văn thông thường, với những danh từ thông dụng, chỉ dùng đến những thuật ngữ khi chúng ta bất tìm thấy trong ngôn ngữ thông thường một danh từ tương đương và nếu phải dùng đến một danh từ chuyên khoa ít ra chúng ta phải định nghĩa nó cho rành mạch.

Đó cũng là quy tắc mà chúng tui cố gắng theo khi soạn ra sách này. Chúng tui được sung sướng nếu tất cả bạn đọc đều có thể hiểu chúng tôi, dù là người chỉ có sức học cơ sở sơ học.

Có cần gì phải nói bất phải một khi gấp quyển sách này lại mà quý bạn đọc vừa trở thành một nhà tâm lý sành sỏi.
Việc dọ dẫm, tiềmo xét cá tính con người là một công chuyện tế nhị vì mỗi con người là mỗi trường hợp riêng biệt.

Nhưng muốn giải đáp bài toán, ít ra nên phải biết những định lý căn bản. Đây chỉ là một mớ tài liệu về khoa học của tâm hồn mà chúng tui ước mong rằng nó sẽ giúp cho những ai muốn tìm hiểu bài giải về cá tính con người.

Theo Phạm Cao Tùng
 
Đi xem một cuộc triển lãm hội hoạ, chúng ta nhận thấy các bức tranh trưng bày chẳng những khác nhau về đề tài, về khuôn khổ mà còn khác nhau rất nhiều về sắc độ. Bức thì màu sắc rực rỡ, bức lờ mờ, hay lộng lẫy, hay vui hay buồn. Có bức thì đơn sắc, có bức lại gồm có nhiều màu sắc đối chọi nhau một cách ngộ nghĩnh, có bức hình dáng chẳng khác gì một tấm thảm.

Tuy thế, tất cả những bức tranh ấy đều đặng làm ra (tạo) nên với một ít màu chính, lúc nào cũng thế.

Cá tính của con người cũng tương tự như các bức tranh nói trên. Tuy nó hiện ra dưới bao nhiêu sắc thái nhưng tựu trung nó cũng chỉ đặng làm ra (tạo) nên bởi một ít bẩm màu căn bản. Chính sự phối hợp không cùng phức tạp của những bẩm chất này vừa làm cho có sự khác nhau giữa loài người, làm thành bao nhiêu hạng người.

Tâm lý học nhằm hai mục tiêu: Tìm xem đâu là những bẩm chất cốt yếu của con người và sau khi vừa định rõ giá trị mỗi bẩm chất ở một người, sẽ tiên đoán thái độ, lối xử sự của người ấy.

Hai cá tính của con người:

Từ lâu rồi người ta vừa ngờ ngợ rằng những yếu tố cấu thành cá tính con người có thể phân làm hai loại. Người ta nhận thấy một cách mơ hồ rằng trong thâm tâm của mỗi người đều có một cái gì vững vàng, suốt đời bất thay đổi và bao phủ trên cái cái phần ấy, như một cái mặt nạ, còn có một cá tính khác, uyển chuyển hơn, biến hóa hơn, lại chịu ảnh hưởng của những biến cố bên ngoài.

Một trong những thắng lợi của tâm lý học hiện giờ là vừa chỉ định một cách rõ rệt rằng trong mỗi người đều có hai cá tính.

Lúc chào đời chúng ta mang sẵn trong người cái cá tính trời nhiên. Những yếu tố của nó làm nòng cốt cho cái khí chất và cái trí tuệ của chúng ta. Cái cá tính thứ nhì được gọi là cá tính tập thành bởi nó được kết thành do những hiện tượng bên ngoài, do tất cả những biến cố của đời sống.

Đôi khi các nhà khoa học cũng gọi nó là “bản ngã căn bản”, “bản ngã ngoại diện”. Nhưng chúng ta xin miễn dùng những tiếng “lóng” ấy và chỉ có thể nói một cách giản dị là mỗi người khi sinh ra đời đều có nhận được một số công cụ hay tốt hay xấu, đó là cá tính trời nhiên. Dưới ảnh hưởng của những hiện tượng đời sống, họ sẽ dùng những công cụ ấy để xây dựng cá tính tập thành.

Bây giờ chúng ta hãy xem xét cái cá tính trời nhiên ấy làm bằng những gì? Lúc sinh ra đời, chúng ta vừa nhận được những công cụ gì? Những bẩm chất nào là những bẩm chất căn bản? Bao nhiêu câu hỏi mà bấy lâu nay người ta bất tìm ra lời giải.
Tuy thế, từ lúc nào cũng như lúc nào, con người luôn luôn muốn tìm hiểu lý do những hành động của mình. Họ tự dò la, tiềmo sát, tự thú. Họ vừa ghi chép kết quả của những cuộc tiềmo sát này trong bao nhiêu sách vở: tiểu thuyết, ký sự, khái luận, tiềmo cứu và thu thập rất nhiều tài liệu song chẳng đi đến một kết quả tiềm quan nào. Không thể xếp thành loại mớ tài liệu ấy, cũng bất thể rút ra những quy tắc tổng quát. Ngay chuyện đặt để và định nghĩa các danh từ, những tác giả cũng chưa cùng ý thay. Việc dùng “phương pháp nội quan” để tìm hiểu tâm lý con người vừa thất bại.

Vì sao? Bởi khi người ta chỉ trông qua một bức tranh thì bất tài nào có thể phân định những màu căn bản mà họa sĩ vừa dùng để vẽ bức tranh ấy. Hẳn thí dụ rằng loài người chưa biết thuật hội họa. Có thể nào qua một bức tranh chúng ta phân tách nổi trong bức tranh ấy có bao nhiêu chất màu xanh, và cách phân phối màu xanh ấy ra sao? Chúng ta có biết màu xanh là màu căn bản chăng? Chắc là không, cho đến khi chúng ta tìm ra một phương pháp có thể làm nổi bật ra một màu này hay một màu khác trong bảy màu của cầu vòng. Lúc bấy giờ chúng ta mới rõ: chỉ có bảy màu chính, bảy màu căn bản, cách phân phối những màu ấy ra sao, và chúng ta biết rõ tất cả các sắc do sự pha trộn của hai hay nhiều màu trổ ra.

Cách nhà tâm lý học hiện giờ vừa tìm ra một thứ “thuốc thử” na ná như thể để phân tách rõ rệt những yếu tốt làm ra (tạo) thành cá tính con người. Thuốc thử đó là bệnh điện.

Thuốc thử của bệnh điên:

Nếu khoa học tâm lý về con người ngày nay vừa có một nền tảng vững chắc đó là nhờ công trình của nhiều nhà chuyên về bệnh tinh thần như Ernest Dupré chẳng hạn và nhất là nhờ những phát minh của hai nhà bác học: Giáo sư F. Achille Delmas, một tâm y sĩ có tiếng và giáo sư Marcel Boll, một nhà khoa học mà cũng là môt nhà văn, một nhà phê bình nhiều người biết đến.

Họ đáng cho chúng ta ghi ân. Chính họ là những người sáng làm ra (tạo) ra nền tâm lý học" mới "thời. Chẳng những họ vừa lập ra một lối phân loại rất hợp lý về các bẩm chất căn bản của cá tính con người, ngoài ra họ cũng là những người đầu tiên vừa phân biệt có hai loại tâm lý học: Một thứ tâm lý học tịnh tiềmo sát về cá tính trời nhiên và các tính tập thành. Một thứ tâm lý học động tiềmo sát về lối cư xử, thái độ của con người. Nói một cách khác, có thứ tâm lý học chuyên tiềmo xét về các bộ phận của guồng máy lại có thứ chuyên tiềmo về cách vận dụng của guống máy ấy.

Chính tui đã căn cứ trên lý thuyết của hai nhà khoa học ấy để xây dựng cái nền tảng vững chắc của sách này, và trong bao nhiêu áp dụng mà tui đã đề cập trong sách này tui chưa hề thấy lý thuyết ấy sai chạy ở một điểm nào.

Muốn hiểu rõ tại sao người ta có thể dùng người điên để phân tích tâm trí của người có đủ lý trí, chúng ta cần hiểu qua về những chứng bệnh tinh thần và cách xếp loại của nó.

Xưa kia người ta bất biết gì về bệnh điên cả. Thấy người nào nói xàm nói nhảm hay có những hành động kỳ dị, người ta cho rằng họ điên hay khùng, bất hơn bất kém. Tuy rằng người ta vừa nhận thấy có nhiều chứng cuồng tâm, loạn óc song bất ai buồn nghiên cứu những bệnh ấy. Cho đến cuối thế kỷ XVIII người ta vẫn còn xem những người điên như loài ác thú, người ta cùm xích họ lại, họ sống một đời sống đáng thương hại.

Đến đầu thế kỷ XIX, mới có một nhà y sĩ từ tâm biết nghiêng mình xuống số phẩn hẩm hiu của những người bạc phúc ấy. Đó là ông Pinel. Ôngười vừa kéo họ ra khỏi chốn cực hình, vừa bắt đầu nghiên cứu về họ một cách hợp lý.

Suốt thế kỷ gần đây, nhiều người khác vừa tiếp tục chuyện tiềmo cứu này và ngày ngay, khoa tâm y học tức là khoa học nghiên cứu về các chứng bệnh tinh thần vừa tiến bộ một cách tiềm quan. Những công cuộc nghiên cứu liên tục này vừa giúp người ta tìm ra một lối xếp loại rất quan trọng: Phân chia các chứng bệnh tinh thần ra làm hai nhóm riêng biệt: Những bệnh do thương tích gây ra và những bệnh do thể tạng tức là do sự cấu thành của thể chất làm ra (tạo) nên.

Những bệnh điên do thương tích gây ra:
Những bệnh điên do thương tích có những đặc điểm cốt yếu sau đây:
Con bệnh luôn có những vết thương trong óc, người ta tìm thấy những vết thương này khi mổ thây người chết để khám nghiệm.
Có thể đây là một chứng bệnh tập thành chứ bất phải do trời bẩm, vì những vết thương này phát ra sau khi con người vừa sinh ra hay nếu sớm hơn, thì cũng là khi bào thai vừa tượng hình.
Tùy theo vết thương có tính chất vĩnh viễn hay tạm bợ, người ta sẽ chia những bệnh do thương tích này làm hai loại:

Loại đầu gồm những chứng mất trí, ngu đần, động kinh, bất toại, điên cuồng, lẩm cẩm vì già nua. Loại sau gồm những bệnh điên phát sinh bởi một vết thương hay một chất độc (rượu, thuốc phiện v.v…).

Những bệnh này thường đều bất trị, trừ những bệnh thuộc loại thứ hai và ở trường hợp mà chất độc chỉ gây những thương tích nhẹ.

Những bệnh điên do thể tạng gây ra:
Những bệnh tinh thần thuộc nhóm thứ hai, tức là những bệnh điên do thể tạng sinh ra, mới đáng cho người muốn nghiên cứu về tâm lý học quan tâm hơn.
Những bệnh thuộc nhóm này có hai thuộc tính:

Nó do trời bẩm. Mầm gốc những chứng bệnh ấy vừa sẵn có trong người con bệnh từ lúc họ mới lọt lòng. Rất có thể và thường khi như thế, bệnh ấy chưa phát triển đầy đủ lúc con bệnh còn thơ ấu, bởi sự phát triển ấy có thể hay sớm hay muộn, tuy nhiên người ta luôn luôn nhận thấy điều này là những bệnh ấy do thể tạng của con bệnh tức là do cơ cấu thể chất mà họ có sẵn từ lúc họ ra chào đời. (Giáo sư F. Achille Delmas định nghĩa cơ cấu tâm bệnh như thế này: Đó là một nhóm xu hướng tâm thần nhất định, thuộc cá tính trời nhiên của con bệnh, phát triển lúc người ấy mới sinh ra, và suốt đời họ, bộc lộ bởi những phản ứng mạnh hay yếu… nó có thể đi đến những chứng bệnh thần kinh tuần hoàn, thuyên giảm trong chốc lát hay tiệm tiến (nghĩa là bệnh điên phát triển trong một thời (gian) kỳ gần hay xa hay tuần tự mà tiến). – Bài phúc trình về tâm bệnh học ở hội nghị Limoges, từ ngày 25 đến 30 tháng 7 năm 1932.
(Còn vấn đề: Bằng cách nào và do đâu bệnh điên có thể phát sinh từ một cư cấu tâm bệnh thì người ta chỉ hiểu lờ mờ. Trong bản phúc trình nói trên, giáo sư Delmas chỉ thử tìm cách giải).
Những con bệnh này bất mang vết thương tích nào trong óc cả. Khi người ta khám hi sinh thi một người bệnh điên thuộc nhóm này, người ta thấy óc họ chẳng khác gì óc một người lành mạnh. Rất có thể sự tương tự nhau ấy chỉ có ở mặt ngoài, còn nếu có chỗ khác nhau thì những phương tiện tìm tòi hiện giờ cũng chưa cho phép chúng ta nhận thấy những đặc điểm của các khối óc bệnh hoạn ấy.

Điều quan trọng cũng là điều cốt yếu trong chuyện nghiên cứu của chúng ta là những chứng bệnh ấy chỉ là sự lệch lạc, sự phát triển quá độ hay sự khuyết kém những yếu tố căn bản làm ra (tạo) thành cá tính của một người lành mạnh.
Ở người lành mạnh, những yếu tố ấy pha trộn, phối hợp lẫn nhau một cách điều hòa khó lòng cho chúng ta phân biệt.

Ở những con bệnh tinh thần trái lại tính cách bất thường của những yếu tố ấy làm cho nó nổi bật lên trên cá tính, nhờ đó chúng ta rất dễ thấy.

Vì thế chúng ta có thể dùng những bệnh “điên” thuộc nhóm sau này như một thứ “thuốc thử” mà chúng tui đã nói ở trước. Một khi có thể phân biệt và xếp những chứng bệnh ấy thành loại thì chúng ta cũng vừa biết rõ có bao nhiêu bẩm chất căn bản làm ra (tạo) thành cá tính con người. Công trình nghiên cứu của hai ông F. A Delmas và M. Boll là vừa xác định lối phân loại ấy.
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
Z Hãy tìm phong cách thời gian cá tính cho cá nhân của bạn Thị trường, Mua bán 0
S Khảo sát tính chất hóa lý của cá sặc rằn và sự biến đổi của nó trong quá trình ướp muối Khoa học Tự nhiên 0
N Ảnh hưởng của bao bì đến tính chất hóa lý của sản phẩm khô cá Sặc Rằn trong thời gian bảo quản Khoa học Tự nhiên 2
D Phân tích cơ sở khoa học của đặc điểm tâm lý( tính khí cá nhân) và chứng minh hiệu quả của việc ứng Luận văn Kinh tế 0
D Khảo sát thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của tinh dầu diếp cá (Houttuynia cordata Thumb) Khoa học Tự nhiên 0
D Hoàn thiện pháp luật về vấn đề quyền xác định lại giới tính của cá nhân Luận văn Luật 0
T Tính tích cực học tập của học viên cao học, tác động của các yếu tố cá nhân và các yếu tố môi trường Văn hóa, Xã hội 0
T Bồi thường tổn thất tinh thần do sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân bị xâm Luận văn Luật 3
G Quyền nhân thân của cá nhân đối với tính mạng, sức khỏe, thân thể trong pháp luật dân sự Việt Nam Luận văn Luật 2
L Theo chế độ kế toán 48 đối với DN vừa và nhỏ, tiền chi trả lãi vay của cá nhân được tính vào chi phí Hỏi đáp Thuế & Kế toán 1

Các chủ đề có liên quan khác

Top