quabongvang

New Member
Mình lập Topic này, hy vọng sẽ được cùng với các bạn cùng đi khám khá những câu chuyện thú vị về các thương hiệu nổi tiếng thế giới. Rất mong các bạn sẽ cùng viết tiếp những câu chuyện mà mình chưa biết! Thank nhiều.

Thương hiệu thứ nhất:

Heinken Beer
Loại bia ra đời có hương vị đậm đà, khó quên và luôn bỏ xa các đối thủ cạnh tranh trong các cuộc thử nghiệm mù về hương vị giữa các lọai bia và trong số những người tham gia (nhà) thử Heineken trong năm 2003, 90% cho biết họ sẽ chọn lại Heineken.
THỊ TRƯỜNG
Phần lớn dân Anh rất thích bia lager. Kể từ thập niên 70, khi bia lager chen chân vào vương quốc này, thị trường dành cho bia lager vừa phát triển nhanh đến mức chóng mặt. Theo số liệu của Datamonitor, 68% bia được tiêu thụ tại Anh là lager, con số này dự kiến sẽ lên đến 73% trong năm 2007.

Khi bia lager dần chiếm được vị trí hàng đầu trong lựa chọn của dân Ăng-lê, thị trường dành cho loại bia này cũng được phân cấp thành standard, premium và superstrength, phụ thuộc theo nồng độ cồn trong bia. Trong số này, phân khúc thị trừơng của bia hạng premium là phát triển nhanh nhất. Mặc dù cả thị trừơng bia nói chung đang giảm 2% hàng năm do sự xuống dốc của các loại bia nặng, bia lager premium vẫn tăng trưởng đều đều ở mức khoảng 6% mỗi năm.
Sự phát triển của bia lager bất chỉ là do đóng lũy của quảng cáo mà còn do sự chuyển đổi từ các quán rượu sang quán bar và câu lạc bộ. Chính những thay đổi này vừa mang lại lợi thế cho các thương hiệu bia lager premium nào có được hình ảnh tốt đẹp và dẫn đến sự gia (nhà) tăng trong doanh thu của các loại bia lager premium đóng chai, một điều rất hấp dẫn đối với số lượng khách hàng nữ giới đang gia (nhà) tăng ngày nay.

THÀNH TÍCH ĐẠT ĐƯỢC
Trong nhiều năm qua, Heineken được xem là thương hiệu bia thành công nhất và là một biểu tượng trong ngành. Trong một thị trường mà các loại bia đất phương luôn được hưởng nhiều sự ưu ái, Heineken bất chỉ chiếm trọn cảm tình của Châu Âu mà còn được ưa chuộng trên toàn thế giới, trở thành thương hiệu bia hàng đầu, và được xem là loại bia nhập khẩu số 1 tại Mỹ.

Bia Heineken có mặt khắp tất cả nơi và hãng Heineken NV sở có đến 110 nhà máy sản xuất bia tại hơn 60 quốc gia, khối lượng bia sản xuất lên đến 109 triệu hectolit hàng năm.
Theo bảng xếp hạng và đánh giá của Interbrand/Business Week hàng năm về 100 thương hiệu phát triển nhất thế giới, thương hiệu Heineken trị giá 2.4 tỉ USD và gia (nhà) tăng 6% giá trị từ năm 2002-2003.
Vị thế vững mạnh chính là yếu tố quan trọng nhất vì năm 2003 là cực kỳ quan trọng đối với Heineken trong thị trường chủ chốt ở Anh. Với hai sản phẩm Heineken Cold Filtered và Export rút ra khỏi thị trường Anh, Heineken hầu như phải quay lại vạch xuất phát để tiếp thị cho sản phẩm bia premium nồng độ cồn 5% vốn rất quen thuộc trên toàn thế giới nhưng vẫn còn xa lạ tại Anh. Điều này cùng nghĩa với chuyện phải phân phối lại từ đầu và thời (gian) gian chờ đợi để các sản phẩm cũ được tiêu thụ hết trên thị trừơng cùng nghĩa với chuyện Heineken phải chấp nhận một đợt giảm doanh thu ngắn hạn.
Chiến dịch PR hỗ trợ cho đợt ra mắt lại của Heineken có sự lũy mặt của các ngôi sao nổi tiếng ở Anh như Zoe Ball, Ronan Keating, Holly Valance và Johnny Vegas được thay đổi diện mạo bởi nhiếp ảnh gia (nhà) Rankin, tốn hết 1.5 triệu bảng và được trao giải thưởng cao quý PR Week Awards.
Tại các quán rượu và bar, Heineken có doanh thu cao thứ nhì trong số các bia lager chỉ sau 9 tháng xuất hiện trên thị trường. Các loại bia Heineken đóng chai và lon cũng rất thành công và Heineken được ADSA xếp vào “Beer Category Launch of the year” và chiếm 3 giải thưởng về PR, bao bì và quảng bá qua radio của giải thưởng hàng năm của tạp chí Grocer cho quảng cáo và tiếp thị.
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH

Đựơc chế biến lần đầu tiên vào năm 1870 tại Amsterdam, thương hiệu Heineken được chính thức chào đời vào năm 1873, khi Gerard Adrian Heineken thành lập nên Heineken & Co. sau khi vừa tiếp quản cơ sở sản xuất bia De Hooiberg ở Amsterdam.

Năm 1887, một nhà máy mới được xây dựng ngay bên ngoài thành phố cổ này. Đến năm 1988, nhà máy ngừng hoạt động và từ đó trở thành Heineken Experience, một trong những đất điểm du lịch rất thu hút tại Hà Lan. Năm 1975, nhà máy mới tại Zoeterwoude , Hà Lan đi vào hoạt động. Đây là nhà máy sản xuất bia lớn và hiện lớn nhất Châu Âu lúc bấy giờ.
Alfred Heineken, cháu nội của nhà sáng lập, gia (nhà) nhập vào năm 1942 và biến Heineken từ một cơ sở sản xuất đơn thuần thành một doanh nghề gần gũi với khách hàng. Chính Alfred là người vừa đưa ra chủ trương xuất khẩu bia ra toàn thế giới, khởi đầu cho chuyện mở lớn lớn của Heineken trên toàn thế giới. Trong giai đoạn giữa hai cuộc Thế chiến, Heineken được xuất khẩu sang Pháp, Bỉ, Anh, Tây Phi và Indonesia. Năm 1933, Heineken trở thành loại bia ngoại đầu tiên được nhập khẩu vào Mỹ sau khi lệnh cấm sản xuất bia rượu được bãi bỏ.
Heineken bước vào thị trường Anh năm 1961, khi ký hợp cùng hợp tác với tập đoàn sản xuất bia Anh Whitbread & Co. . Năm 1969 hãng cấp giấy phép chế biến bia Heineken ngay tại Anh, vì vào thời (gian) điểm ấy, người Anh chuộng bia nhẹ hơn là bia lager. Heineke vừa tạo ra một loại bia mới nhẹ hơn so với bia Heineken thông thường và đặt tên là Heineken Cold Filtered. Loại bia này có bao bì khác so với bia Heineken truyền thống và được bán với giá thấp hơn để khách hàng bất bị lầm lẫn.
Quyết định thay thế Heineken Cold Filtered và Export tại Anh năm 2003 bằng loại bia sản xuất tại Hà Lan đánh dấu sự kết thúc của mối liên hệ giữa Heineken NV và Whitbread & Co. nhưng lại là mở ra một thời (gian) đại mới cho thương hiệu Heineken.
SẢN PHẨM
Loại bia Heineken có mặt tại Anh ngày nay cũng tương tự như bia Heineken có mặt tại khắp nơi trên thế giới, được chế biến tại Hà Lan bằng công thức truyền thống từ 1873. Bia được chế biến với nồng độ ABV 5%, dùng nước tinh khiết, lúa mạch đựơc chọn lọc kỹ lưỡng và ướp hoa bia. Chính nhờ vào loại men đặc biệt Heineken “A-yeast” vừa mang đến cho bia Heineken một hương vị đặc trưng độc đáo. Men này được cất kỹ tại Thụy Sỹ và cung cấp cho 110 cơ sở sản xuất bia Heineken hàng tháng.

Loại bia ra đời có hương vị đậm đà, khó quên và luôn bỏ xa các đối thủ cạnh tranh trong các cuộc thử nghiệm mù về hương vị giữa các lọai bia và trong số những người tham gia (nhà) thử Heineken trong năm 2003, 90% cho biết họ sẽ chọn lại Heineken.
Chất lượng chính là yếu tố quan trọng hàng đầu và Heineken luôn đảm bảo rằng sản phẩm của mình được chế biến ở điều kiện chuẩn nhất. Khí CO2 được ứng dụng trong pha chế bia luôn là tinh khiết để đảm bảo cho bia luôn mang một hương vị thuần khiết nhất.
Về mặt bao bì, Heineken cũng bỏ xa các đối thủ của mình với nhiều loại bao bì và kiểu chai tiện lợi với nhiều dung tích khác nhau trong dạng lon và chai.

NHỮNG CẢI TIẾN GẦN ĐÂY
Thay đổi lớn nhất và quan trọng nhất đối với Heineken tại thị trường Anh xảy ra vào tháng 3/2003, khi Heineken NV và Whitbread khẳng định rằng giấy phép sản xuất, tiếp thị và phân phối Heineken tại Anh sẽ hết hiệu lực khi hợp cùng kết thúc vào năm 2003. Heineken NV sẽ lấy lại sự kiểm soát chuyện tiếp thị và phân phối Heineken ở Anh sau đó. Vì thế, kể từ tháng 2/2003, Heineken Cold Filtered và Heineken Export sẽ biến mất sau 34 năm hiện diện tại Anh.

KHUYẾN THỊ
Tại Anh, Heineken là một trong những thương hiệu lâu đời và nổi tiếng nhất. Heineken có một vị trí đặc biệt trong tâm trí người tiêu dùng nhờ vào những chiến dịch quảng cáo có thể được liệt vào hàng kinh điển trong thập niên 80 và 90. “Heineken refreshes the parts other beers cannot reach” là một trong những chiến dịch quảng cáo kéo dài nhất và nổi tiếng nhất trong ngành quảng cáo ở Anh. Bên cạnh đó, Heineken còn giành được nhiều giải thưởng quảng cáo nhờ vào tính hài hước dễ mến, điển hình là “The water in Majorca don’t taste like like what it oughta.” Thành công của những quảng cáo này vừa là nền tảng cho sự phát triển nhanh chóng của Heineken trong thập niên 80.

Quyết định thay thế Heineken Cold Filtered và Export bằng Heineken Premium tại Anh trong năm 2003 vừa phải nhờ đến sự trợ giúp của đội ngũ tiếp thị tại Heineken một lần nữa.
Thông điệp chính cho đợt giới thiệu lại sản phẩm lần này rất đơn giản: “Bia Heineken cũ sắp ra đi và được thế chỗ bằng Heineken Premium 5%”. Những yếu tố chính được truyền đạt qua PR với thông điệp “Heineken vừa thay đổi”, thể hiện một cách sống động qua một chiến dịch với sự giúp đỡ của nhiếp ảnh gia (nhà) hàng đầu Rankin. Ông vừa chụp hình 7 ngôi sao nổi tiếng nhất ở Anh và thay đổi từng gương mặt với nhau để diễn tả thông điệp chính của chiến dịch. Ví dụ như gương mặt của siêu người mẫu Jodie Kidd được dần dần chuyển sang một tay ganster sừng sỏ hay ca sĩ R&B bảnh trai Craig David hoá thành một rocker chính hiệu.
Các báo như The Sun và The Mirror vừa dành ra những trang bài và hình ảnh sau khi những bức ảnh quảng cáo của Rankin đựơc công bố. Bên cạnh đó Channel 4 cũng phát sóng một phim tư liệu dài 30 phút với tất cả thông tin rõ hơn về chiến dịch này từ khởi đầu cho đến kết thúc. Tổng cộng vừa có 1.5 triệu bảng Anh vừa được đầu tư vào công tác PR chỉ trong vòng 2 tuần.
Giai đoạn kế tiếp của chiến dịch là khi tung ra sản phẩm trên thị trường, được phụ thuộc vào ý tưởng cho các két bia Heineken “nhảy dù” xuống nuớc Anh. Các poster quảng cáo ngoài trời được hỗ trợ thêm bởi sự lũy mặt của những chiếc xe tải kéo theo xe hơi rõ ràng vừa bị các két bia Heineken “hạ cánh” xuống. Những “đội quân” hỗ trợ này đi diễu hành khắp các đường phố trung tâm và đi đến cả những nơi diễn ra các sự kiện quan trọng như cuộc thi London Marathon.
Một chiến dịch khác nhằm củng cố lại chất lượng hàng đầu của Heineken được phụ thuộc trên ý tưởng “Heineken vừa được kiểm nghiệm trên khắp các đường phố ở tất cả nơi trên thế giới và chắc chắn rằng Heineken là lựa chọn đúng đắn nhất dành cho bạn” được thể hiện qua nhiều hình ảnh cho dân chúng ở Anh thấy rằng bia Heineken được yêu mến thế nào trên toàn thế giới.

Những quảng cáo này bao gồm “Dutch tolerance test” (bài kiểm tra sức chịu đựng của dân Hà Lan) cho thấy người dân xứ hoa tulip có thể dễ chấp nhận tất cả việc như thế nào trừ khi chứng kiến người khác chọn một loại bia bất phải là Heineken. Hay một đoạn quảng cáo khác về “Swiss neutrality test” (bài kiểm tra tiềm năng giữ thế trung lập của người Thụy Sỹ) cho thấy người dân nước này sẵn sàng dẹp bỏ bộ mặt ôn hoà, thậm chí khơi màu chiến tranh khi đụng đến bia Heineken của họ.
Để làm ra (tạo) cho mình vị thế hàng đầu, Heineken tiếp tục với các chương trình tài trợ và dùng đây như một nền tảng giúp thương hiệu làm ra (tạo) dựng được sự tín nhiệm và khiến người khác muốn uống thử Heineken. Một trong những sự kiện quan trọng của năm 2003 là Heineken Cup, giải đấu rugby uy tín của Châu Âu và Cúp rugby thế giới, một trong những sự kiện quan trọng đối với Heineken nhờ vào bảng vàng thành tích của đội tuyển Anh tại giải này bao lâu nay. Trong năm 2004, Heineken sẽ tập trung vào những sự kiện quan trọng khác sau khi công bố sự liên kết giữa Heineken UK và Hiệp hội Olympic của Anh, cùng hướng đến Thế vận hội Athens 2004.
GIÁ TRỊ THƯƠNG HIỆU
Kể từ khi thành lập vào năm 1873 cho đến nay, thương hiệu Heineken luôn được xem là cùng nghĩa với chất lượng, bất chỉ trong hương vị bia mà còn ở các mối quan hệ kinh doanh, trong công chuyện cũng như trong tư tưởng tiến bộ.

Một trong những giá trị quan trọng khác được thể hiện qua sự khát khao học hỏi những kinh nghiệm mới, tự tin cởi mở, năng lực và sự sành điệu. Đây cũng là những yếu quan trọng nhất lũy phần định vị và phân biệt thương hiệu Heineken trên thị trường.
Bên cạnh đó, thương hiệu Heineken cũng cổ vũ cho tinh thần nhiệt tình hăng hái. Ngoài ra Heineken luôn có mối liên hệ chặt chẽ với khách hàng và với những gì đang diễn ra ở thế giới bên ngoài.
Kết hợp với những giá trị trên còn là quan điểm của Heineken, được miêu tả là thân thiện, hay tìm tòi học hỏi, thông minh và hài hước. Những nét đặc sắc này vừa góp phần mang lại thành công cho Heineken cả về mặt xã hội lẫn kinh doanh.
NHỮNG ĐIỀU CÓ THỂ BẠN CHƯA BIẾT VỀ HEINEKEN
* Heineken xuất khẩu bia nhiều đến nỗi hãng trở thành khách hàng lớn thứ nhì trong vận tải xuyên Đại Tây Dương, sau quân đội Mỹ.
* Năm 1886, Dr Eilon, học trò của Louis Pasteur phát triển thành công Heineken “A-yeast” - men bia đặc trưng của Heineken vẫn còn được ứng dụng trong công nghệ sản xuất bia ngày nay của Heineken và giúp mang lại cho các sản phẩm của Heineken một hương vị riêng độc đáo.
* Bia Heineken được pha chế theo một phong cách riêng, đặt trong các thùng nằm ngang, làm cho bia luôn có một hương vị đặc trưng.
* Số lượng bia lon được Heineken sản xuất trong năm 2002 có thể xếp thành vòng xung quanh trái đất 35 lần.
* Heineken sản xuất 620,000 lon bia/giờ.
=> Mỗi thương hiệu là một bí ẩn đầy thú vị cần khám phá!
 
Em xin mạo mụi làm người thứ hai nha bác trustee!?
Mê xe từ nhỏ nên bây giờ xin giới thiệu với các bạn một thương hiệu nổi tiếng trong các hãng sản xuất xe trên thế giới đó là BMW

Driving Mac BMW - The Ultimate hine



BMW là một thương hiệu (nhiều) đa quốc gia, nổi tiếng về chất lượng, phong cách thể thao với các sản phẩm xe hơi và xe gắn máy. Thương hiệu này luôn đem đến cho người tiêu dùng những công nghệ mới nhất, cùng với sự (nhiều) đa dạng về mẫu ngựa – kết quả vừa đem lại cho nó sự tăng trưởng về doanh số chưa từng có. Thí dụ, năm 2006 số xe BMWS mới được đăng ký tại CH Séc là 1.912 chiếc, tăng 5,7% so với năm 2005.

THỊ TRƯỜNG

Mười bốn nhà phân phối được BMW cấp giấy phép chịu trách nhiệm phân phối các sản phẩm của nó tại CH Séc, những sản phẩm này được thay mặt bởi một BMW có trụ sở ở Munich, một công ty bất những thành công tại Séc, mà còn thành công trên toàn thế giới. Riêng năm 2006, BMW bán được 1,37 triệu chiếc BMW, MINI và Rolls – Roysce. Theo ước tính con số này sẽ là 1,4 triệu vào năm 2007. Hàng năm, có hơn 100.000 xe gắn máy được sản xuất.

NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC

Các sản phẩm của BMW luôn đạt được doanh số rất cao trên thị trường thế giới và các giải thưởng mà nó dành được là minh chứng cho điều đó. Tại giải Touring Car Championship, BMW đoạt 3 giải, sêri BMW 3 nhận giải “World Car of the year 2006” và nằm trong tốp 3 của “World Design Car”. Sêri BMW 3,5,7 liên tục được bình chọn là “best car in their class” của độc giả tạp chí thể thao mô tô Châu Âu, cùng với đó BMW cũng đoạt được giải “auto motor und sport”. BMW cũng nhận giải thưởng về sáng làm ra (tạo) công nghệ trong chương trình “Efficient Dynamics” năm 2007.

Thành công lớn về chế làm ra (tạo) động cơ của BMW trong cuộc tiềmo sát “Engine of the year” là một thành tựu đầy ý nghĩa. Thí dụ, động cơ xăng 3,2l, 6 xi lanh vừa tạo ra một kỷ lục, khi 5 năm liên tiếp đạt danh hiệu động cơ của năm. Một thành công khác là động cơ xăng 6 xi lanh, gồm 2 tua bin vừa đoạt giải “Engine of the year” trong năm 2007.

BMW cũng rất thành công trong lãnh vực thể thao. Năm 1983, tay lái Nelson Piquet vừa đem về cho đội BMW Sauber F1 một chức không địch thế giới.

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH

BMW (Bayerische Motorenwerke) được thành lập vào năm 1917coi nhưmột nhà sản xuất động cơ máy bay. Đây là nguồn gốc của logo trắng-xanh đầy cá tính, tượng trưng cho một cánh quạt đang xoay chuyển.


Vào đầu năm 1919, bay công Franz Zeno Diemer phá vỡ kỉ sáu với độ cao 10km trên mặt biển (chính xác là 9,760m hay 32,021 feet) với một máy bay sử dụng động cơ BMW IV và năm 1924, chuyến bay liên sáu địa đầu tiên đến Persia được thực hiện.Tiếp theo là 5 kỉ sáu thế giới bị phá vỡ với chiếc thủy bay cơ Rohrbach Ro VII cũng được trang bị động cơ BMW VI. Một bước ngoặt lớn vừa xảy ra vào năm 1930 khi Wolfgang von Bronz trở thành người đầu tiên bay qua vùng Bắc Đại Tây Dương từ Đông đến Tây.Ông vừa thực hiện một hành trình dài 44 giờ trên chiếc máy bay có thể đi trên nước và trên bất được chế làm ra (tạo) bởi Dornier có tên là “Wal” (Whale), sử dụng động cơ BMW.

Vào cuối những năm 1920, Lãnh đạo BMW vừa quyết định sản xuất ôtô. Chiếc ôtô đầu tiên được ra mắt là mẫu “Dixi” 3/15, một bản sao từ xe Austin Seven.

Mẫu xe của BMW là 3/20, được giới thiệu trên thị trường vào năm 1932. Năm tiếp theo là sự ra đời của sêri BMW 6 xilanh nổi tiếng, sử dụng khung tản nhiệt, được biết đến với cái tên “quả thận”. Mẫu 328 vừa trở thành một huyền thoại, ngay khi được ra mắt tại Nurburgring vào năm 1936, nó vừa trở thành một chiếc ôtô nhanh nhất với dung tích động cơ lên đến 2l và năm 1940, sêri xe này cán đích ở vị trí số một tới 120 lần tại cuộc đua Mille Miglia xuyên Italy.

Sau thế chiến II, BMW bị mất nhà máy ở Eisenach và các nhà máy ở Munich bị phá hủy bởi bm đạn. Tuy nhiên, BMW vừa trở lại một cách tuyệt cú vời, hơn cả mong đợi. Mẫu xe 501 được giới thiệu vào năm 1951, theo sau là 502, 503 và cuối cùng là chiếc Roadster 507 với 8 xilanh vào năm 1955. Vào những năm 1990, BMW Z8 là một huyền thoại.

Mẫu Isetta có một vị trí đặc biệt trong lịch sử của BMW, đó là một chiếc xe mini, mui trần thường được gọi là “quả chứng” hay “bong bóng” bởi vẻ ngoài đặc biệt và hiện lớn của nó.

Năm 1978, bộ phận phụ trách các vấn đề liên quan đến thể thao BMW Motorsport GmbH (bây giờ là BMW M) được thành lập tại Garching, gần Munich. Chiếc xe đầu tiên được xuất xưởng là mẫu BMW M, một chiếc xe bình dân được trang bị một hệ thống thường được sử dụng cho xe moto, với động cơ 6 xilanh, công nghệ 4 van, 288 ngựa lực. Sau đó công nghệ này cũng xuất hiện trong các mẫu BMW M635 CSI và BME M5.

Năm 1986, phiên bản đầu tiên của BMW M3 (E30) được chế làm ra (tạo) và nhanh chóng dành được nhiều thắng lợi trên các đường đua. Sau mẫu xe này, chữ cái ma thuật “M” xuất hiện trên các mẫu sau đó – BMW M5, M5 Touring, một số dòng xe BMW M3, BMW M Roadster và BMW Z3 Coupe. Tất cả mẫu xe này chiếm giữ một vị trí bất thể thay thế trong chương trình sản xuất của công ty với các mẫu M3, M5, M6 và Z4 M.

Cuối thế kỷ 20, tập đoàn BMW vừa sở có nhiều thương hiệu uy tín nhất thế giới, Rolls-Royce. Không lâu sau, chiếc MINI huyền thoại được ra mắt

Lịch sử sản xuất xe gắn máy của BMW bắt đầu vào năm 1920, khi động cơ “boxer” được chế tạo. Động cơ này là nét đặc biệt của chiếc R32 BMW với động cơ 2 xilanh truyền thống, trục xe và giải pháp công nghệ đặc biệt này tiếp tục được sử dụng trong các xe máy ngày nay.

Vào cuối thế kỉ 20, chuyện sản xuất xe máy dần được mở rộng lớn và đầu những năm 1990, tổng số xe bán ra đạt mức 1 triệu chiếc.

SẢN PHẨM

Ngày này, một loạt các mẫu xe của BMW đang chiếm phần lớn thị trường xe hơi. Nhỏ nhất là loại xe gia (nhà) đình – Series 1- được biết đếncoi nhưloại xe đuôi cong có 3, 5 cửa. Sau đó là loại xe nhỏ gọn –sêri 3 –coi nhưmột salon hai chỗ mui trần. Sêri 5 là một salon thay mặt cho loại xe bình dân, trong khi loại xe mui trần, 2 chỗ thay mặt cho dòng xe sang trọng GT.


Quan trọng là sêri BMW và dòng xe kết hợp giữa BMW X3 với X5 SAV và BMW Z4 thể thao hai chỗ được sản xuất với phiên bản hai chỗ ngồi.

Một loạt xe máy BMW bao gồm 3 dòng xe căn bản (F,K và R) với 20 phiên bản dành cho đua xe, thể thao và đất hình.

NHỮNG PHÁT TRIỂN GẦN ĐÂY

Hiện tại, thương hiệu BME là một bộ phận của tập đoàn BMW. Ngoài chuyện sản xuất xe BMW, tập đoàn này còn quản lí thương hiệu Rolls-Royce và MINI cũng như bộ phận M GmbH (dòng xe thể thao của BMW) và bộ phận cá nhân BMW mang đến tiềm năng cá tính hóa bất giới hạn của các xe BMW. Nhà sản xuất xe máy BMW cũng là một bộ phận của tập đoàn.

Danh mục hoạt động rộng lớn lớn của công ty cũng liên quan đến thể thao môtô. Gần đây, hoạt động chính của BMW là ở giải “World Touring Car Championship”. Năm 2006, công ty chính thức gia (nhà) nhập đường đua công thức 1coi nhưđội độc lập BMW Sauber F1, sau khi là nhà cung cấp động cơ cho giải.

BMW cũng tham gia (nhà) vào hoạt động đua thuyền. Đội đua BMW Oracle Racing thường xuyên tham gia (nhà) vào các cuộc đua thuyền buồm lớn, đặc biệt là giải America’s Cup.

Giải golf nghề dư quốc tế lớn nhất - BMW Golf International bắt đầu từ năm 1988 vừa phát triển mạnh với hơn 100.000 người tham dự. Đây cũng là một hoạt động chính của BMW.

Bộ sưu tập BMW Lifestyle cung cấp quần áo và phụ tùng từ BMW, MINI, M, Golf Sport, Sauber F1 và sêri Oracle được thiết kế dành cho các fan của BMW. Cũng có các sản phẩm dành cho xe, thiết bị và bảo trì phụ tùng.

KHUYẾN THỊ

Là một thương hiệu, thông điệp mà BMW truyền đạt tại Cộng Hòa Séc là “The Ultimate Driving Machine”. Công ty cũng được đánh giá cáo trong hoạt động tài trợ, hợp tác truyền thông” và sau cùng là tham gia (nhà) vào các sự kiện lớn như AUTOSALON Brno.

Là một bộ phận của tập đoàn BMW, công ty BMW tại Séc sử dụng những công cụ truyền thông và xuất bản phiên bản tạp chí BMW Quốc Tế tại Séc.

GIÁ TRỊ THƯƠNG HIỆU

Xe BMW là một trong những thương hiệu hàng đầu trong lãnh vực sản xuất xe hơi và moto. Những giá trị căn bản của nó là sự đổi mới, truyền thống, năng động, nghệ thuật và tính riêng biệt. Tất cả các yếu tố này mang đến cho người tiêu dùng những trải nghiệm “Ultimate Driving Machine”.

Đổi mới kĩ thuật và áp dụng công nghệ mới luôn là ưu tiên hàng đầu của BMW. Một ví dụ, đó là mẫu 3/15 huyền thoại, chiếc xe đầu tiên trong lịch sử với thân xe làm bằng thép, động cơ nhôm 8 xilanh được sản xuất sau chiến tranh thế giới thứ hai. BMW Hydrogen 7 là chiếc xe đầu tiên chạy bằng khí hydro.

Thiết kế năng động là một đặc điểm đầy cá tính của mỗi chiếc BMW – từ bộ khung tản nhiệt “quả thận” và 2 đèn trước đến những đường viền mang phong cách thể thao, đặc điểm “Hofmeister Kink” trên cột chống C. Dưới ngòi bút của nhà thiết kế Christopher Bangle và đội của ông, BMW vừa sáng làm ra (tạo) nên một triết lí thiết kế có một bất hai và điều này vừa thay đổi cách nhìn của tất cả người về xe hơi. Những thiết kế vượt thời (gian) gian của BMW đã, đang và luôn luôn mới.
(theo lantabrand.com)
 

toi_toi

New Member
thêm tý thông tin về BMW nha. hihi
BMW tiếng ĐỨc là Bayerish Motoren werke, tiếng anh là Bavaria Moto Work.
Logo của hãng xe hơi danh tiếng này là hình ảnh cánh quạt máy bay được cách điệu hóa ( các bạn có thể nhìn thấy ở trên), hai mầu trắng và xanh nhạt được lấy theo mầu cờ tiểu bang Bavaria.
Trụ sở chính đặt tại Munich cộng hòa liên bang ĐỨc.
SẢn phẩm của hãng hiện tại bao gồm oto xe máy và cả xe đạp trong đó oto là chủ yếu. Doanh thu năm 2007 là tài chính 1958 và 1959 bị thua lỗ nặng, ban giám đốc và ban quản trị vừa đề nghị bán BMW cho Daimler-Benz ( tập đoàn này hiện đang sở có Mercedes đó). Tuy nhiên với sự phản đối của các cổ đông nhỏ, chuyện mua bán này vừa thất bại
năm 1969 rời phần sản xuất moto về berlin.
Năm 1990 thành lập với Rolls-Royce công ty liên doanh BMW-Rolls-Royce và qua đó trở thành nhà sản xuất động cơ máy bay.
Năm 1994 chuyện mua công ty Anh Rover trở thành một thất bại trả toàn làm BMW tiêu tốn 9 tỷ DM.
Năm 2000 BMW bán rover và chỉ giữ lại nhãn hiệu Mini và năm 2002 chiếc Mini thiết kế mới được bán rất thành công.
SAu các thương lượng kéo dài với Volkswagen ( cũng của ĐỨc) từ năm 2003 BMW giành quyền sở có nhãn hiệu xe siêu sang Rolls-Royce.
Dưới đây là sơ đồ các dòng xe oto của BMW

Sơ đồ xe oto của hãng này sản xuất mình có nhưng mà bất post được ngại viết. Nếu ai mún xem thì kêu mình mình mail cho nha











































Ketnooi.com/forum/ - Kênh tiếp cận khách hàng mới của bạn

Liên hệ quảng cáo trên http://ket-noi.com/forum/


Mobile: 093 777 7963

Email: ads (at) Ketnooi.com/forum/

 

catcanh122

New Member
Ok! Very good! Thanks for your support!


One, Two, Three ..... Welcome......


===> We have many many great brands?


Which brand do you love?


Share it for me!!!


Don't Make Me Wait!









Văn hóa cảm ơn

Mỗi lần được nhận thanks bạn sẽ có thêm 2 điểm.


- Bấm nút thanks là cách Thank ý nghĩa nhất.

- Trả lời lại câu hỏi là cách Thank thiết thực nhất.

 

yenbeckham

New Member

Trích:

Hay đấy

Nhưng tớ nghĩ nên chia nhỏ các bài ra một cách riêng rẽ, nhu* the^' nay` kho' nhin` lem

Như thế hới khó quản lý và theo dõi, bới sẽ bất tài nào biêt chúng ta vừa có bao nhiêu thương hiêu, và thương hiệu hôm nay là gì? Nếu có rieng một box về Mỗi ngày một thương hiệu thị OK thôi!

 

Amott

New Member
Mình Xin đóng lũy vào đây thương hiệu mà Trong chúng ta điều GHIỀN nó !


M&M - Sôcôla sữa

Thương hiệu M&M thay mặt cho chất lượng vượt trội và mang lại sự thích thú cho người tiêu dùng từ khi ông Mars phát triển sản phẩm vào năm 1940. Sự xuất hiện của kẹo sôcôla M&M bất chỉ toàn cầu, phù hợp với tất cả lứa tuổi, giới tính và tất cả quốc gia, nó còn mang lại những viên sôcôla màu sắc vui nhộn đến cho tất cả người khi thư giản.

THỊ TRƯỜNG

Sôcôla vẫn tiếp tục được bầu chọn là mùi vị yêu thích nhất trong chủng loại bánh kẹo tại Mỹ. Thị trường tiêu thụ sôcôla Mỹ được xếp thứ 8 trên thế giới, và Anh là thị trường tiêu thụ lớn nhất của chủng loại này. Trong một cuộc tiềmo sát gần đây, có 52% người Mỹ (cả nam lẫn nữ) bình chọn sôcôla là loại kẹo ưu thích nhất trong các loại bánh kẹo và đồ tráng miệng. Trong nhóm này, 65% chọn sôcôla sữa và 27% chọn sôcôla đắng. Số 8% còn lại bất có sự lựa chọn nào cả.

Việc kinh doanh sôcôla vẫn phát triển đều đặn; do chất chống dưỡng hoá được tìm thấy trong sôcôla và lợi ích sức khoẻ vừa khiến người tiêu dùng mua nhiều hơn. Halloween là ngày lễ có số lượng tiêu thụ kẹo cao nhất ở Mỹ, theo sau là lễ Giáng sinh, Phục sinh và Lễ tình nhân. Việc kinh doanh bán lẻ kẹo ước đoán thu được 23.3 tỉ USD năm ngoái, trong đó kinh doanh bán lẻ sôcôla chiếm 12.9 tỉ. (Nguồn: Hiệp hội bánh kẹo quốc gia, U.S Phòng thương mại).

THÀNH TÍCH ĐẠT ĐƯỢC

Ngày nay, thương hiệu M&M được bán ở hơn 70 nước và trở thành thương hiệu lớn, nổi tiếng nhất thế giới. Tại Bắc Mỹ, M&M được bình chọn là thương hiệu số 1 và lớn hơn thương hiệu đứng thứ 2 đến 50%. Qua 20 năm, chỉ số kinh doanh tăng hơn 1000%, đẩy mạnh thương hiệu thu được 2 tỉ USD trong kinh doanh bán lẻ, trong khi đó tỉ lệ chủng loại sản phẩm tăng lên gấp đôi và gần đạt mức gấp đôi với sự phát triển tổng thể năm 1995. Hơn nữa, M&M vẫn giữ vững được vị trí dẫn đầu trong chủng loại kẹo này bởi sự cam kết phát triển loại kẹo sôcôla màu sắc vui nhộn, tươi tắn và thật thích hợp cho hàng triệu khách hàng trung thành cũng như các khách hàng mới của họ.

Vào năm 1941, M&M thay đổi sôcôla đen và nâu sữa thành sôcôla có nhiều màu sắc, vừa cỡ. Cho đến hôm nay, sau gần 60 năm từ khi nó được tung ra thị trường, bất một ai có thể xâm lấn vào nền móng và thay đổi vị trí của thương hiệu kẹo sôcôla M&M độc nhất này. Thật vậy, hình dáng kẹo M&M đặc biệt vừa giúp cho thương hiệu trở thành trụ cột chính của ngành bánh kẹo, và vẫn tiếp tục phát triển bất ngừng qua hơn 50 năm. Trong 5% chủng loại kẹo dạng thanh dài, M&M vừa dẫn dắt từ xu hướng thúc đẩy mua kẹo tại các điểm bán chuyển sang xu hướng “mua kẹo tại nhà”. Thương hiệu cũng vừa đi đầu trong đường lối kinh doanh lớn chúng - những năm 60 và gần đây hơn là xu hướng yêu cầu kẹo trực tiếp trên mạng. Dù được xem là sản phẩm hàng đầu trong ngành và bắt đầu quảng cáo trên TV từ năm 1954, hay thương hiệu có những chương trình khuyến mãi đổi mới như “Bình chọn màu sắc” (Color Vote) năm 1995, hay kiểu dáng bao bì giàu chất sáng tạo, M&M vừa và đang bắt đầu làm ra (tạo) dựng tiêu chuẩn công nghề rõ ràng. Trong một thời (gian) gian ngắn, chính nhờ kiểu dáng sản phẩm đổi mới song hành với vị trí vững chắc, M&M được đánh giá là thương hiệu dẫn đầu trong ngành kinh doanh bánh kẹo. Ngày nay, thương hiệu M&M vừa được xem như một hình tượng thương hiệu Mỹ.

LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN

Đi theo con đường mơ ước, Kẹo Sôcôla M&M được nảy ra từ một ý kiến là từ một vùng đất xa xôi, tìm cách thu hút để làm ra (tạo) sự nổi tiếng tuyệt cú cú đối và thành công trên toàn thế giới. Khi câu chuyện được gợi ý thêm, ông Forrest Mars đến thăm Tây Ban Nha trong cuộc nội chiến của nước này và bắt gặp binh sĩ đang ăn những viên sôcôla tròn cứng, có đường bọc bên ngoài, chính lớp bọc này giúp cho sôcôla bên trong bất bị chảy. Với nguồn cảm hứng mới, ông Mars xây cho mình một ước mơ; và khi quay về nhà, ngay trongphòng chốngbếp, ông bắt đầu sáng chế ra công thức đầu tiên cho M&M Kẹo Sôcôla đơn giản.

Được bán rộng lớn rãi vào năm 1941, kẹo M&M đầu tiên giành được sự thu hút đáng kể từ American Gis phục vụ trong thế chiến thứ II, những người thích có kẹo trong khẩu phần ăn của họ. Kẹo sôcôla bất hư trong thời (gian) tiết nóng chưa được nghe bao giờ trong suốt thời (gian) điểm đó nhưng nhờ vỏ bao kẹo màu sắc của M&M giải quyết được vấn đề này, và sau khi giới thiệu vào năm 1941, người Mỹ có thể thưởng thức viên sôcôla M&M màu như nâu, vàng, cam, đỏ, xanh và tím suốt năm.

Trong thập kỉ 50, Kẹo Sôcôla M&M nhanh chóng trở thành sản phẩm chủ yếu của các gia (nhà) đình người Mỹ. Chương trình quảng cáo giúp tăng thêm độ nổi tiếng của những viên kẹo có sức hút bất cưỡng lại được, bằng cách dùng câu thông điệp rất nổi tiếng, “Sôcôla sữa chỉ tan trong miệng, bất chảy nước trên tay”.

Từ lúc được làm ra (tạo) ra, M&M vừa phục vụ cho quân đội Mỹ, chính vì thế hiển nhiên kẹo sôcôla M&M được tham gia (nhà) vào chương trình bất gian của Mỹ một cách chính thức. Nó trở thành một phần của nguồn cung cấp thực phẩm cho tàu con thoi đầu tiên vào năm 1981. Đến 1984, thương hiệu M&M thực hiện chuyến du hành vũ trụ trên tàu con thoi và trở thành một phần trong tổng số nhiệm vụ của tàu từ thời (gian) gian đó. Ngoài chuyện mạo hiểm tham gia (nhà) chương trình bất gian, M&M Kẹo Sôcôla sữa còn mạnh dạn mở rộng lớn thị trường ra khỏi nước Mỹ, tổ chức kinh doanh ở cấp quốc tế. Cũng trong thập kỉ 80, thương hiệu M&M xuất hiện tại Kì Olympic Thế Vận Hội trong vai trò nhà tài trợ “Snack Food” năm 1984 ở Los Angeles.

Khi thế kỉ 20 sắp kết thúc, thương hiệu M&M tuyên bố họ sẽ trở thành “Thương hiệu kẹo chính thức của trời niên kỉ mới”.

SẢN PHẨM

Kẹo Sôcôla M&M là sự pha trộn đặc biệt giữa chất lượng sôcôla sữa hàng đầu và mùi vị tuyệt cú cú vời bất quá ngọt cũng bất quá ngấy. Từng viên kẹo được bao bọc bởi một lớp vỏ đường có màu sắc, mỏng, giòn; nhằm truyền đạt kết cấu kẹo M&M độc nhất và đặc biệt nhất. Vỏ bọc của kẹo có màu sáng, bóng và rực rỡ. Bên trong nó là sôcôla sữa và bên ngoài là vỏ bọc đường giòn tan có mùi vị chủ đạo – tuy nhiên màu sắc của kẹo lại bất cho mùi vị.


M&M được làm thành 9 loại: kẹo sôcôla sữa (M&M thể ban đầu), Sôcôla nhân đậu phộng, Sôcôla bơ đậu phộng, Sôcôla hạnh nhân, Sôcôla nhân xốp, Kẹo Sôcôla bạc hà, Kẹo Sôcôla mini, Sôcôla Sữa và Sôcôla hơi ngọt, Bánh sôcôla mini, và Màu sắc chọn lọc (Color works).

Sản phẩm Màu sắc chọn lọc (M&M’s Color works) là bộ sưu tập 21 màu lung linh của Sôcôla sữa, được chọn từ bất kì sự kết hợp nào để mang đến cho bạn sự lựa chọn màu sắc riêng. Kẹo sôcôla có thể được dùng để pha trộn màu sắc nhằm làm ra (tạo) thêm nhiều sự đổi mới, phù hợp bất chỉ cho các buổi tiệc, cuộc họp, sự kiện mà còn dành để làm quà tặng.

NHỮNG PHÁT TRIỂN GẦN ĐÂY

Qua nhiều năm, thương hiệu M&M và Những thương hiệu con của M&M vừa hiển nhiên trở thành hình tượng thương hiệu Mỹ. M&M là khẩu phần “C” trong thế chiến thứ II, và từ 1984, dùng làm thức ăn trong bất gian cho các nhà du hành Mỹ, cùng nghĩa với chuyện giành được sự hiện diện cố định ở hiệp hội Smithsonian. Kẹo M&M còn nổi tiếng là loại kẹo truyền thống trong ngày lễ Halloween, và trong vài năm gần đây, kí tự “M” vừa tham gia (nhà) vào hoạt động của ngày lễ Tạ Ơn của Macy. Ở Las Vegas, thế giới kẹo M&M có hết 28 ngàn mét vuông dành cho khu vực bán lẻ. Thật vậy, M&M vừa trở thành một phần của cuộc sống người dân Mỹ từ khi thương hiệu tung ra chương trình “ Bình chọn màu sắc” năm 1995, và hơn 10 triệu người vừa bầu cho những màu sắc mới của M&M Kẹo Sôcôla.

Với sở thích của người trẻ và già, thương hiệu cũng dành riêng những phần đặc biệt cho cuộc sống của họ, tương tự như bánh snack thơm ngon hay trò chơi cho trẻ em và những màu sắc tươi tắn. Mối quan hệ giữa người tiêu dùng và thương hiệu hiển nhiên rất tốt thông qua sự yêu thích trả toàn dành cho M&M Người kẹo phát ngôn (Spokecandies). Sau 37 năm, M&M nổi tiếng hơn bao giờ hết, điều đó khiến cho thương hiệu thành công trong công cuộc mở rộng lớn thị trường ra thế giới. Trong khi rất nhiều thương hiệu lớn khác bắt đầu đi xuống thì M&M vẫn chứng tỏ được sức hút của mình mạnh hơn bao giờ hết.

KHUYẾN THỊ

Theo lịch sử, thương hiệu M&M nắm giữ một trong những thông điệp truyền thông dễ nhớ nhất: “Chỉ tan trong miệng, bất chảy nước trên tay”. Đi cùng với thông điệp này, các chương trình khuyến mãi của M&M cũng rất đặc biệt và khác lạ với sự xất hiện của của “Người kẹo phát ngôn”. Năm 1995, cùng với chương trình “Bình chọn màu sắc” huyền thoại có thêm màu xanh dương tham gia (nhà) cùng với Đỏ và Vàng xâm nhập vào cuộc sống; “Người kẹo phát ngôn” biến đổi từ nhân vật hoạt hình thành hình ảnh sinh động rất thật, mang lại cho những nhân vật này một vị trí ngôi sao đáng kể.

Trong cùng năm đó, những nhân vật này tấn công vào Hollyhood trên internet với phần mở đầu của M&M Studio ( ). Những khách vào trang web này sẽ thấy họ đang đứng bên trong một thế giới đẹp say đắm của M&M “Người kẹo phát ngôn” tương tự như ngôi sao. Trang web thuê chương trình Shockwave và công nghệ RealAudio để hỗ trợ cho những nhân vật hoạt hình sống động và cả âm thanh nữa.

Không chỉ có những nhân vật vui vẻ trên internet, họ còn thành công trong cương vị nhà tài trợ cho đội đua xe M&M ở giải NASCAR Winston. Xe đua được lái bởi Ernie Irvan trong những năm đầu, tiếp theo là Kenny Scharder sau khi Irvan nghỉ hưu.

Sự kiện nổi bật trong năm 1997 là sự ra đời của Màu xanh lá cây, là cô nàng duy nhất trong những nhân vật của M&M, và cũng là một nhân vật tài năng. Cô nàng bắt đầu xuất hiện trong một số quảng cáo thương mại và được tham gia trong các tour khuyến mãi cả nước để đẩy mạnh tiểu sử mới của cô: “Với ai tui cũng bất tan”.

Và năm 2000, một sự kiện lớn thay đổi tiếng tăm của M&M Kẹo Sôcôla giản dị (M&M’s Plain Chocolate Candies). M&M/MARS vừa quyết định rằng với sản phẩm kẹo sôcôla quá tốt vừa không còn thích hợp với từ “giản dị”, và cái tên này được thay đổi thành M&M Kẹo Sôcôla sữa ( M&M’s Milk Chocolate Candies).

GIÁ TRỊ THƯƠNG HIỆU

Thương hiệu M&M thay mặt cho chất lượng vượt trội và mang lại sự thích thú cho người tiêu dùng từ khi ông Mars phát triển sản phẩm vào năm 1940. Sự xuất hiện của kẹo sôcôla M&M bất chỉ toàn cầu, phù hợp với tất cả lứa tuổi, giới tính và tất cả quốc gia, nó còn mang lại những viên sôcôla màu sắc vui nhộn đến cho tất cả người khi thư giản.

HTML:
·Hơn 146 tỉ kẹo M&M được sản xuất hàng năm
 ·Nếu xếp một hàng dài gồm tất cả các loại M&M được sản xuất mỗi năm có thể bao vòng quanh thế giới 56 lần, từ mặt trăng và trở về 5.9 lần hay bao từ New York đến Los Angeles 586 lần.
 ·Chữ M được in vào trong mỗi nhãn M&M bằng một cái máy thiết kế riêng chỉ cho hoạt động ấy. Nó được lập trình định cỡ để bất làm vỡ vỏ bọc của viên kẹo. 
 ·Mất 8 giờ để làm một viên kẹo M&M, tuỳ từng trường hợp vào những nguyên liệu làm kẹo như - sữa, đậu phộng, hạnh nhân, bơ đậu phộng hay là bột giòn (crispy)
 ·Kẹo M&M đầu tiên hơi lớn hơn viên kẹo bây giờ và được bán trong ống với giá 5 xu.
(Tham tiềmo từ superbrand)









Ketnooi.com/forum/ - Kênh tiếp cận khách hàng mới của bạn

Liên hệ quảng cáo trên http://ket-noi.com/forum/


Mobile: 093 777 7963

Email: ads (at) Ketnooi.com/forum/

 

Aswin

New Member
Hay lắm! Bạn hãy Edit lại bài viết đi, trên đầu cho dòng chữ Thương hiệu thứ 3(To và đậm vào), căn chữ sang bên trái, căn hình vào giữa cho dễ nhìn nha! Đây sẽ là thương hiệu của ngày mai! Ok? Thanks much!








Văn hóa cảm ơn

Mỗi lần được nhận thanks bạn sẽ có thêm 2 điểm.


- Bấm nút thanks là cách Thank ý nghĩa nhất.

- Trả lời lại câu hỏi là cách Thank thiết thực nhất.

 

spy_vodoi

New Member
Thương hiệu thứ 4: VISA (Wed, Dce 10th 2008)



Hình thức thanh toán phổ biến trên toàn cầu
Thay vì chỉ tập trung vào phát hành thẻ, trong 40 năm qua Visa luôn chú ý tới những đổi mới bất ngừng, sự chấp nhận và sự tin tưởng, làm ra (tạo) nên nhiều phát triển đáng kể trong ngành công nghề này, gồm thiết bị máy quay số điện hi sinh đầu tiên, mạng lưới ATM toàn cầu đầu tiên và phát minh VisaNet cũngcoi nhưmột trong những dịch vụ an ninh phát triển nhất trong ngành công nghề này. Hiện nay, hơn 488 triệu thẻ của thương hiệu Visa được phát hành tới tay người tiêu dùng tại Mỹ.

THỊ TRƯỜNG

Hằng ngày, hơn 250 triệu người ở Mỹ băn khoăn với quyết định sẽ mua gì cho họ, cho gia (nhà) đình họ, cho công chuyện của họ và quyết định chi tiêu như thế nào. Càng ngày càng có nhiều người chọn các hình thức thanh toán Visa, và Visa trở thành thương hiệu được sử dụng để thanh toán phổ biến nhất tại Mỹ. Cho dù quyết định của bạn chỉ đơn giản là mua chút đồ ăn nhanh dọc đường hay là một dự án đầu tư quan trọng cho công chuyện của mình hay một kỳ nghỉ mơ ước thì dịch vụ và sản phẩm của Visa luôn giúp chuyện thanh toán, mua bán của bạn được thuận tiện và an toàn. Trong 4 thập kỷ vừa qua, thương hiệu Visa vừa trở thành biểu tượng của sự tin tưởng, được thừa nhận và thuận lợi, giúp tất cả tất cả người trong cuộc sống của chính họ và giúp họ đạt được giấc mơ của mình.


Khởi nghề với loại thẻ tín dụng với mục đích chung đầu tiên năm 1958, Visa vừa trở thành thương hiệu hàng đầu trên thế giới có số người sử dụng thương hiệu đáng ngạc nhiên. Không lâu trước đây, khi mua một sản phẩm gì đó có nghĩa là bạn phải trả bằng trước mặt hay séc. Nhưng ngày nay, người dân Mỹ có thể chọn một trong số hàng loạt các hình thức thanh toán phong phú, tiện lợi, linh động và an toàn hơn các hình thức trước đây như thẻ tín dụng, thẻ Visa debit, Visa prepaid.

Visa là thương hiệu đi tiên phong trong lĩnh vực thanh toán điện tử, cung cấp các sản phẩm và dịch vụ đổi mới có thể sử dụng tất cả lúc, tất cả nơi. Quan trọng hơn cả, những đổi mới trong sản phẩm và dịch vụ của Visa giúp cho người sử dụng có thể tự do dùng theo cách của họ, tăng sự linh động về tài chính vì họ có thể chi trả bất cứ thứ gì họ cần.

NHỮNG THÀNH TỰU GẦN ĐÂY

Ra đời trong thập kỷ phát triển thị trường và công nghệ, Visa trở thành thương hiệu thẻ thanh toán hàng đầu trên thế giới. Visa nắm rõ những thông tin về khách hàng hơn bất cứ đối thủ cạnh tranh nào. Đồng thời (gian) Visa cũng có được danh tiếng của chính mình, nhận được sự chấp nhận và sử dụng rộng lớn rãi của khách hàng nhiều hơn các thương hiệu thanh toán khác. Số lượng khách hàng sử dụng Visa trên toàn cầu lớn hơn tổng số khách hàng sử dụng các thương hiệu thanh toán khác cộng lại.


Việc thúc đẩy mở rộng lớn thị trường mới và chuyện ra đời nhiều hình thức thanh toán mới của Visa vừa tăng số lượng đất điểm giao dịch lên gấp đôi, từ 3 triệu đất điểm trong thập kỷ trước lên tới 5,9 triệu. Cùng với chuyện tập trung vào nâng cao các hình thức thanh toán vừa giúp Visa có số lượng bán ra hàng năm tại Mỹ tăng gấp 3 trong 10 năm trở lại đây, lên tới 1,3 triệu tỉ năm 2005; trong số khách hàng tại Mỹ, thanh toán bằng thẻ Visa vừa vượt qua hình thức thanh toán bằng trước mặt.

Điều cốt yếu của những thành công này là hệ thống cách thức giao dịch tập trung của Visa - VisaNet - một hệ thống cách thức giao dịch tin cậy nhất, an toàn nhất và lớn nhất thế giới. VisaNet liên tục được cải tiến để đáp ứng nhu cầu của khách hàng và các doanh nghiệp, giúp cho chuyện thanh toán điện hi sinh của khách hàng và doanh nghề ngày càng trở nên thuận tiện, có nhiều lựa chọn khác nhau và dễ kiểm soát. Visa vừa đầu tư hàng triệu đôla cho công nghệ phần cứng và phần mềm nhằm hỗ trợ chuyện thanh toán tất cả lúc, tất cả nơi, bằng tất cả cách. Bằng chuyện liên kết các ngân hàng và điểm giao dịch trên toàn cầu, VisaNet có được trung bình khoảng 100 lượt giao dịch mỗi ngày với sự tin cậy tuyệt cú đối. Tính riêng mỗi giờ, mạng lưới này có thể giao dịch với số lượng tương đương với lượng giao dịch của thị trường chứng khoán trên toàn thế giới trong một ngày.

Ngoài những thành tựu kinh doanh trên, Visa cũng tự hào bởi những thành công trong quảng bá trách nhiệm tài chính cho người dân Mỹ. Chương trình Hiểu biết tài chính có thưởng, Practice Money Skills (kỹ năng sử dụng tiền) của Visa cung cấp những lời khuyên của các chuyên gia (nhà) về vấn đề quản lý tài chính, đặc biệt là vấn đề quản lý, tiết kiệm và chi tiêu một cách hợp lý.

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH

Trở lại nguồn gốc của thương hiệu Visa năm 1958, khi đó ngân hàng Mỹ phát hành thẻ BankAmericard xanh, trắng và vàng cung cấp cho người sử dụng lựa chọn trả trước trong tài khoản dưới hình thức trả góp. Năm 1970, liên minh ngân hàng tại Mỹ liên kết lại và thiết lập National BankAmericard, Inc., một thành viên giám sát hoạt động của chương trình BankAmercard tại Mỹ. Vào năm 1977, National BankAmericard, Inc. thành lập Visa, một tên thương hiệu đơn giản, dễ nhớ, có thể phát âm gần như tương tự nhau trong tất cả ngôn ngữ. Cái tên Visa nhận được sự cùng tình ở mức độ rộng lớn cùng với tính linh động của nó.


Vào thời (gian) gian khởi đầu của tên Visa, công ty hiểu rằng giá trị lâu dài của thương hiệu bất bị giới hạn bởi tên thương hiệu hay đặc điểm gắn liền với từ “card”. Tầm nhìn xa so với thời (gian) điểm đó khi mà các hình thức thanh toán có thể được mở rộng lớn nhờ sự hỗ trợ của các phương tiện mới vừa giúp cho Visa theo kịp với những thay đổi trong lối sống và cách làm việc.

Thay vì chỉ tập trung vào phát hành thẻ, trong 40 năm qua Visa luôn chú ý tới những đổi mới bất ngừng, sự chấp nhận và sự tin tưởng, làm ra (tạo) nên nhiều phát triển đáng kể trong ngành công nghề này, gồm thiết bị máy quay số điện hi sinh đầu tiên, mạng lưới ATM toàn cầu đầu tiên và phát minh VisaNet cũngcoi nhưmột trong những dịch vụ an ninh phát triển nhất trong ngành công nghề này. Hiện nay, hơn 488 triệu thẻ của thương hiệu Visa được phát hành tới tay người tiêu dùng tại Mỹ.

SẢN PHẨM

Các khách hàng và các doanh nghề trong thị trường này muốn có lựa chọn tốt nhất trong chuyện quyết định chi trả hàng hoá và dịch vụ khi nào, ở đâu và như thế nào. Để đáp ứng nhu cầu này, Visa vừa cung cấp đầy đủ nhất các loại thẻ như thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, thẻ trả trước và các sản phẩm và dịch vụ thẻ thương mại, bao gồm:


Visa Signature. Một loại thẻ được thiết kế cho những khách hàng chủ yếu chi tiêu cho các hoạt động du lịch, giải trí và mua lẻ, Visa đưa ra những lợi ích, phần thưởng và các dịch vụ thích ứng với nhóm khách hàng này, gồm cả chuyện tham gia (nhà) sự kiện giải trí có một bất hai, bữa tối đặc biệt, quà, dịch vụ du lịch (nhiều) đa dạng.

Gold Visa Check Card. Loại thẻ này được thiết kế cho hoạt động như chuyện kiểm tra - tại thời (gian) điểm giao dịch, số trước lập tức được khấu trừ từ tài khoản kiểm tra của khách hàng. Gold Check Card cũng cung cấp cho khách hàng những phần thưởng ngoài những lợi ích như Emergency Card Replacement/Emergency Cash Disbursement (thay thẻ khẩn cấp), Purchase Security (mua an toàn), và Warranty Manager Service (dịch vụ quản lý đảm bảo).

Visa Gift Cards. Số lượng thẻ Visa trả trước như Visa Gift card tăng đến chóng mặt vì ngày càng nhiều khách hàng nhận ra rằng đây là loại thẻ tiện lợi và đảm bảo như trước mặt và séc với tiện ích trả trước trước khi mua hàng hoá thật.

Visa Business Cards. Loại sản phẩm này cho phép những công ty nhỏ tách biệt giữa chi phí kinh doanh và chi phí cá nhân, giúp đơn giản hoá công chuyện sổ sách hàng tháng và cung cấp những báo cáo chi tiêu chi tiết.

Contactless. Xuất hiện trong số các loại thẻ Visa, Contactless là hình thức thanh toán mới cho phép khách hàng chỉ cần lướt thẻ qua chỗ đọc ngựa an toàn thay vì phải nhét thẻ vào, tiết kiệm được thời (gian) gian mua sắm. Công nghệ này làm ra (tạo) được sự thuận lợi cho khách hàng và hiệu quả cho nhà kinh doanh, những người có thể tiến hành nhiều giao dịch hơn trong một thời (gian) gian ngắn.

NHỮNG PHÁT TRIỂN GẦN ĐÂY

Đáp ứng sự phát triển đáng kể trong cách thanh toán, hãng Visa gần đây vừa giới thiệu những thay đổi đáng kể có ảnh hưởng tới sự phát triển của Visa trong các cách thanh toán cho khách hàng và doanh nghiệp.


Một điểm nhấn mới đánh dấu sức mạnh lâu dài của thương hiệu Visa, Visa cung cấp thêm những ứng dụng linh động khác như thanh toán qua điện thoại di động và các phương tiện khác. Những thay đổi bổ sung là những thiết kế thẻ mới nhằm tăng tính linh hoạt cho các loại thẻ tài chính Visa, đòi hỏi nhiều nơi sử dụng thẻ cho chương trình thương hiệu của mình.

Visa mới đây cũng cho ra mắt một diễn đàn thương hiệu và chiến dịch quảng cáo mới “Life Takes Visa”. Diễn đàn nhấn mạnh vị trí hàng đầu của Visa trong chuyện cung cấp các loại sản phẩm hỗ trợ con người trong tất cả khía cạnh của cuộc sống.

Chiến dịch quảng mới của Visa xây dựng trên những cơ sở của diễn đàn nằm trong chiến dịch có mang tên “It’s Everywhere You Want to Be” trong suốt 2 thập kỷ vừa qua. Cùng một lúc, chiến dịch “Life Takes Visa” hỗ trợ cho chuyện tăng lượng khách hàng và các công ty thương mại, củng cố vị trí thương hiệu trong tương lai và tăng cường sự kết nối giữa Visa và các khách hàng.

Khuyến thị

Khi các khách hàng và doanh nhân Mỹ chú trọng đến các sự kiện thể thao, giải trí, thương hiệu Visa cũng được biết đến nhiều. Visa tự hào vì tham gia (nhà) kết hợp với các sự kiện đỉnh cao và tổ chức lớn như Olympic Games, Broadway, NASCAR, NFL và Kentucky Derby. Điều này vừa giúp Visa làm ra (tạo) những ấn tượng mạnh cho khách hàng và các doanh nghiệp.


Việc tài trợ cho Olympic Games bắt đầu từ năm 1988 và vừa trở thành một phần quan trọng trong chuyện xây dựng thương hiệu Visa, củng cố vị trí hàng đầu và làm ra (tạo) được lòng trung thành giữa những khách hàng quan trọng cũng như hỗ trợ của những thành viên tài chính. Ngoài ra cuối thập kỷ 80, Visa cũng tài trợ cho Olympic Games của Mỹ hơn 9 triệu đôla.

GIÁ TRỊ THƯƠNG HIỆU

Với những cam kết kiên định về an ninh, thuận lợi và đổi mới, Visa vừa có được lòng tin và lòng trung thành của các thế hệ khách hàng - giúp họ hết dụng tối (nhiều) đa những thời cơ của cuộc sống. Sức mạnh cơ bản của thương hiệu Visa chính là giá trị của nó trong chuyện tạo ra những thời cơ cho tất cả các thành viên, gồm những thành viên tài chính, các doanh nghiệp, đối tác tiếp thị, khách hàng và các doanh nghiệp.

NHỮNG ĐIỀU CÓ THỂ BẠN CHƯA BIẾT VỀ VISA

- Trong năm 2005, doanh thu thẻ thương hiệu Visa về phần trăm chi tiêu cá nhân vượt qua cả chi tiêu bằng trước mặt.

- Năm 1985, với chiến dịch “It’s Everywhere You Want to Be”, Visa vừa tiến hành một chiến dịch quảng cáo đầu tiên trong ngành công nghề này.

- Hàng năm Visa đầu tư 200 triệu đôla vào hoạt động phát triển và triển khai công nghệ nhằm đấu tranh chống lại chuyện gian lận và bảo vệ quyền lợi của khách hàng, loại bỏ chuyện gian lận trong hệ thống Visa tới mức thấp nhất vào năm 2005 chỉ với 5cent trên 100 đôla giao dịch, mặc dù mức giao dịch của Visa mỗi năm là 1,3 triệu tỉ đôla.








Ketnooi.com/forum/ - Kênh tiếp cận khách hàng mới của bạn

Liên hệ quảng cáo trên http://ket-noi.com/forum/


Mobile: 093 777 7963

Email: ads (at) Ketnooi.com/forum/

 

Briggebam

New Member
Vì số 4 là số xấu nên mình sẽ post 1 thương hiệu nữa. Đây sẽ là bài viết cuối cùng trong chuyên mục này của mình, nếu bạn nào rảnh rỗi có thể Post tiếp bài cho topic! Thanks!


Thương hiệu thứ 5: (Thu,Dec 11th 2008)


DOVE




Dove - sản phẩm chăm nom sắc đẹp thuần tuý


Trong khi nhiều người cứ cho rằng Dove vừa có mặt từ rất lâu tại Anh, nhưng thật sự xàphòng chốngtắm Dove chỉ mới đến đây vào năm 1992, là thương hiệu trẻ thứ 4 trong danh mục của Lever Fabergé.


THỊ TRƯỜNG


Thị trường mỹ phẩm ở Anh với giá trị lớn khoảng 2.3 tỉ bảng có mức độ cạnh tranh rất gay gắt. Và trong thị trường này, Dove là thương hiệu có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất với +27% so với +2.6% mức độ tăng trưởng chung của toàn bộ thị trường, và giữ vị trí là thương hiệu mỹ phẩm lớn thứ 4.


Thành công của Dove một phần là do tiềm năng cạnh tranh vững vàng với các thương hiệu lớn trong những ngành hàng chính như Xà phòng, Kem tắm, Sữa tắm, Nước rửa tay, Sữa chăm nom tay và dưỡng thể, Sản phẩm khử mùi, Dầu gội và Dầu xả. Trong những ngành hàng này Dove được xem là thương hiệu lớn nhất trị giá 111.8 triệu bảng. (Nguồn: IRI MAT tháng 1/2004)


Nhiều lĩnh vực trong thị trường mỹ phẩm cũng diễn ra sự cạnh tranh bất kém phần gay gắt do sự hiện diện của những thương hiệu chuyên dùng. Với dầu gội và dầu xả, một ngành hàng có giá trị 528.5 triệu bảng trong năm 2003, Dove xếp vị trí thứ 6 với 4.8% thị phần. Đây là một thành tích đáng nể đối với một thương hiệu chỉ mới mở rộng lớn vào lĩnh vực này trong năm 2001 như Dove, và trên thực tế, mức độ tăng trưởng hàng năm của Dove trong lĩnh vực này là 9.8% giữa năm 2002-2003.


Từ khi bắt đầu tham gia (nhà) vào lĩnh vực sữa tắm năm 1998, Dove vừa nhanh chóng trở thành một đối thủ đáng gờm đối với nhiều thương hiệu gạo cội với mức độ tăng trưởng năm 2002-2003 là 20.1%. Bên cạnh đó Dove cũng rất thành công với các sản phẩm dưỡng thể và chăm nom da tay với mức độ tăng trưởng 41.1% hàng năm với các sản phẩm dưỡng ẩm và làm săn da trị giá 9 triệu bảng năm 2003. Các sản phẩm khử mùi là một thế mạnh khác của Dove khi mở rộng lớn với 6% thị phần.


Gần đây, mặc dù đang tập trung mở rộng lớn sang các ngành hàng khác, Dove vẫn tiếp tục thành công với xàphòng chốngtắm của mình với 25% giá trị, vị trí mà Dove vừa sớm giành được từ năm 1997.


THÀNH TÍCH ĐẠT ĐƯỢC


Việc mở rộng lớn đã mang đến cho Dove nhiều thành công tốt đẹp, và giúp Dove hiện diện trong tất cả 8 ngành hàng chăm nom sắc đẹp với khoảng 50 sản phẩm khác nhau. Thương hiệu Dove giờ trị giá 111.8 triệu bảng chỉ tính riêng doanh thu từ bán lẻ với 35% dân số nước Anh tìm mua sản phẩm của Dove trong năm 2003. Và chỉ riêng thương hiệu Dove cũng có giá trị tương đương, thậm chí vượt qua một số thương hiệu trong ngành hàng tiêu dùng.


Con số giải thưởng Dove nhận được nói lên mức độ thành công trong mở rộng lớn thương hiệu. Tại giải Pure Beauty Awards 2003/04 sữa tắm của Dove nhận được giải thưởng Best Shower Care Launch, kem tắm Dove giành giải Best New Bath Product và Sữa dưỡng thể làm săn chắc da của Dove vừa được công nhận là Sản phẩm Chống lão hoá da tốt nhất. Bên cạnh đó, Sản phẩm chăm nom da tay của Dove cũng đứng thứ nhì trong Best New Hand Care Formula. Dove còn giành thêm các giải thưởng Tesco’s Celebration of Great British Beauty Awards. Ngoài ra còn rất nhiều giải thưởng khác dành cho các sản phẩm của Dove như Media Choice, Cosmo Hair & Beauty, Cosmo Girl, Company Magazine…


LỊCH SỬ HÌNH THÀNH


Trên thị trường quốc tế, Dove là một thương hiệu trị giá 2.5 tỉ USD và là thương hiệu chủ lực trong danh mục các thương hiệu chăm nom cá nhân của Unilever và là một trong những thương hiệu hàng đầu thế giới nhưng sự ra đời của Dove rất khác. Lần đầu tiên Dove xuất hiện trên thị trường là trong thập niên 50 tại Mỹ, và được sản xuất nhằm chăm nom cho các nạn nhân bị bỏng do chiến tranh.


Trong khi nhiều người cứ cho rằng Dove vừa có mặt từ rất lâu tại Anh, nhưng thật sự xàphòng chốngtắm Dove chỉ mới đến đây vào năm 1992, là thương hiệu trẻ thứ 4 trong danh mục của Lever Fabergé. Chất lượng ưu việt của sản phẩm được phản ánh qua các thăm dò khách quan cùng với chiến dịch quảng cáo mới lạ, với cam đoan từ phía khách hàng và thương hiệu - “Dove bất làm khô da bạn như các loại xàphòng chốngthông thường khác” - vừa giúp Dove nhanh chóng giữ vị trí hàng đầu trên thị trường năm 1997.


Dove còn là một ví dụ điển hình cho chuyện mở rộng lớn thương hiệu. Lần đầu tiên Dove mở rộng lớn thương hiệu ra ngoài lĩnh vực xàphòng chốngtại Anh là khi Dove giới thiệu kem tắm Dove năm 1995. Đến năm 1998, với tốc độ chóng mặt, Dove vừa liên tục mở rộng lớn sang nhiều lĩnh vực như Dove Deodorant, Dove Body Wash, và tiếp đó, Dove lấn sang các sản phẩm chăm nom cơ thể năm 2000 và đến năm 2001, người tiêu dùng tiếp tục được làm quen với các sản phẩm chăm nom tóc của Dove. Dầu gội và dầu xả Dove là những sản phẩm bán chạy nhất năm 2002 với doanh thu hàng năm là 22.4 triệu bảng Anh.


Trong những năm gần đây, thị trường xàphòng chốngtắm của Dove vừa suy giảm mất 2% mỗi năm nhưng sự (nhiều) đa dạng hoá sản phẩm và mở rộng lớn thị trường vừa đưa Dove tăng trưởng 30%. Sự mở rộng lớn nhanh chóng này vừa đưa Dove vào hàng ngũ những thương hiệu toàn cầu có mặt ở 80 nước trên thế giới.


SẢN PHẨM


Được xem là sản phẩm chăm nom sắc đẹp thuần tuý, xàphòng chốngtắm của Dove có 3 dạng: Dove Original Cream Bar, Dove Gentle Exfoliating Cream Bar và Dove Extra Sensitive Cream Bar. Tất cả các dạng này đều có chứa ¼ kem dưỡng ẩm và độ pH trung bình để bất làm khô da như các loại xàphòng chốngthông thường khác.


Kem tắm Dove có các dạng: Refreshing, Aroma Massage và Triple Moisturising. Bên cạnh đó Dove còn có 2 loại kem chăm nom da tay dùng ban ngày và ban đêm: Protective Care Hand Balm và Regenerating Care Hand Cream.


Các sản phẩm chăm nom cơ thể của Dove bao gồm: Dove Silkening Body Moisturiser, Dove Rich Nourishing Body Moisturiser, Dove Firming Body Lotion, Dove Intensive Firming Gel-Cream, Dove Hydro Care Body Moisturiser và Dove Body Silk. Mỗi loại đều có công thức đặc biệt giúp dưỡng ẩm, giữ cho da mịn màng, khỏe mạnh.


Năm 1998, Dove giới thiệu các sản phẩm khử mùi với 3 dạng: thanh lăn, chai xịt và sáp. Các sản phẩm này chứa ¼ kem dưỡng ẩm giúp dưỡng da sau khi tẩy lông và làm cho vùng da dưới tay mềm và mịn.


Năm 2001 đánh dấu một bước đi mạnh dạn của Dove khi tiến vào lĩnh vực chăm nom tóc với các loại dầu gội với 6 loại dầu gội thích hợp với tất cả loại tóc: tóc thường, tóc thường - nhờn, tóc khô/gãy, tóc nhuộm, dầu gội kết hợp dầu xả và dầu gội trị gàu. Dầu xả Dove có 4 loại cho các loại tóc thường, tóc khô gãy, tóc nhuộm, và kem xả dưỡng ẩm làm mượt tóc. Các sản phẩm này nuôi dưỡng tóc từ chân và giúp tóc mượt, chắc và khỏe.


Các sản phẩm của Dove cũng có thể phân chia thành 2 nhóm: Các sản phẩm làm mềm và mịn da và các sản phẩm làm săn chắc da.


NHỮNG CẢI TIẾN GẦN ĐÂY


Mặc dù Dove thường tập trung mở rộng lớn sang các ngành hàng khác, nhưng họ luôn ghi nhớ một điều rằng những gì khách hàng dành cho thương hiệu Dove bất chỉ là ở sản phẩm mà thôi.


Một trong những đổi mới quan trọng nhất tại Lever Fabergé chính là thay đổi quan niệm thông thường về cái đẹp và biến Dove thành một thương hiệu biểu tượng cho vẻ đẹp này. Hầu hết các thương hiệu thường quảng cáo các mỹ phẩm như một loại thuốc tiên có thể biến một người thành xinh đẹp trong nháy mắt với hình ảnh của các cô người mẫu xinh như hoa, thế nhưng, hầu hết các phụ nữ đều cho rằng các quảng cáo như thế là bất thật và bất bao giờ xảy ra trong thực tế. Những nghiên cứu mới đây cho thấy khoảng 2/3 phụ nữ bất tự tin vào cơ thể mình và càng thấy khổ sở vì bề ngoài của mình hơn sau khi xem xong các quảng cáo như vậy. Kết quả nghiên cứu cho thấy các phụ nữ Anh muốn được nhìn thấy những người mẫu quảng cáo thật hơn, bình dị hơn trên các phương tiện quảng cáo và truyền thông.


Hiện nay, Dove đang áp dụng một “Nguyên lý mới về cái đẹp” có ảnh hưởng đến cách truyền thông thương hiệu đến khách hàng nữ. Nguyên lý này hướng về những phụ nữ bình thường trong cuộc sống, mở rộng lớn quan niệm về vẻ đẹp của những người phụ nữ với tất cả vóc dáng và màu da khác nhau. Bằng cách chọn một bước tiếp cận thiết thực, Dove vừa tự khác biệt hoá mình so với các đối thủ khác, và định vị mình như một thương hiệu thật sự thấu hiểu và biết cách chăm nom phụ nữ.


KHUYẾN THỊ


Những hình thức quảng bá của Dove luôn tập trung vào một yếu tố rằng Dove là thương hiệu dành cho những người phụ nữ thật sự. Trong những mẩu quảng cáo trên TV đầu tiên, Dove vừa mời các phụ nữ bình thường nhận xét về những sản phẩm mà họ từng dùng qua. Gần đây, quan điểm khác lạ của Dove về sắc đẹp vừa dẫn đến sự xuất hiện của các quảng cáo cho sản phẩm làm săn chắc da mới, có sự lũy mặt của các phụ nữ bình thường chứ bất phải những người mẫu quảng cáo, đây có thể xem là một cách thách thức của Dove với ngành công nghệ chăm nom sắc đẹp.


Khi được hỏi về quảng cáo cho các sản phẩm chăm nom sắc đẹp, 47% phụ nữ nói rằng họ thích vẻ đẹp tự nhiên và bất thích nhìn những cô người mẫu được trang điểm quá kỹ. Gần 2/3 phụ nữ nhận xét rằng họ thích những cô người mẫu quảng cáo có vóc dáng đầy đặn hơn, thay vì những cô mình dây. Hơn một nửa cho rằng nếu được xem quảng cáo có những người mẫu cũng có thân hình tương tự họ thì họ sẽ cảm giác tự tin hơn về cơ thể của mình.


Chiến dịch quảng cáo mới cho các loại mỹ phẩm làm săn chắc da của Dove được thực hiện qua sự hợp tác với nhiếp ảnh gia (nhà) chuyên chụp ảnh cho các ngôi sao, Rankin, vừa thể hiện sự lắng nghe và thấu hiểu của Dove đối với các ý kiến vừa nêu. Khác với các quảng cáo truyền thống, quảng cáo lần này của Dove chỉ xuất hiện những phụ nữ rất bình thường. 6 phụ nữ được mời ngẫu nhiên để tham gia (nhà) vào quảng cáo này nhằm tôn vinh các phụ nữ đời thường và vẻ đẹp riêng của từng người.


Sự sáng làm ra (tạo) mới lạ trong quảng cáo này của Dove vừa đưa thương hiệu Dove lần nữa xuất hiện trên các báo như The Daily Express, The Daily Mail. The Mirror, The Guardian, và The Times.


GIÁ TRỊ THƯƠNG HIỆU


Mặc dù vẻ đẹp tinh khiết và chất dưỡng ẩm trong Dove Cream Bar vẫn còn tại, ngày nay thương hiệu Dove còn mang một ý nghĩa sâu sắc hơn cho khách hàng ở Anh. Thương hiệu Dove là biểu tượng cho “vẻ đẹp tự nhiên thuần khiết” và bất hề mang đến những khuôn mẫu thông thường hay những cam kết vượt quá tiềm năng thực hiện của mình. Dove là một thương hiệu vĩnh cữu vì chính Dove mang một vẻ đẹp giản dị nhưng rạng ngời.




NHỮNG ĐIỀU CÓ THỂ BẠN CHƯA BIẾT VỀ DOVE


* Khoảng 16.8 triệu người sử dụng các sản phẩm của Dove hàng năm.

* 7.2 triệu phụ nữ ở Anh sử dụng Dove mỗi tuần.

* 68 triệu sản phẩm Dove vừa được bán trong năm 2003 - khoảng hơn 1triệu sản phẩm/tuần.

* Trong năm 2003, các quảng cáo của Dove xuất hiện đều đặn hàng tuần trên truyền hình.









Văn hóa cảm ơn

Mỗi lần được nhận thanks bạn sẽ có thêm 2 điểm.


- Bấm nút thanks là cách Thank ý nghĩa nhất.

- Trả lời lại câu hỏi là cách Thank thiết thực nhất.









Ketnooi.com/forum/ - Kênh tiếp cận khách hàng mới của bạn

Liên hệ quảng cáo trên http://ket-noi.com/forum/


Mobile: 093 777 7963

Email: ads (at) Ketnooi.com/forum/

 

Celeste

New Member
Thương hiệu thứ 6
Nói đến KFC chắc tất cả người ai cũng biết, nhưng để hiểu nó xuất hiện từ đâu thì hôm nay đọc song bài nay chắc tất cả người sẽ biết thêm một vài thông tin bổ ích về thương hiệu nổi tiếng này.

KFC - Mang lại sự vui nhộn cho tất cả tất cả người

Sản phẩm chủ yếu của KFC là Buckets, Burgers và Twisters và thịt gà Colonel Crispy Strips với những món ăn thêm mang phong cách quê hương. Năm 2001, KFC vừa tiến hành lập kế hoạch phát triển sản phẩm mới cho mình và “Soul Food” chính là sản phẩm mới trong chiến lược đó.

THỊ TRƯỜNG

Trong những năm gần đây khách hàng của doanh nghề kinh doanh dịch vụ thực phẩm vừa suy giảm mạnh do sự suy thoái của nền kinh tế toàn cầu cùng với sự giảm sút của tốc độ sản xuất tổng lượng sản xuất nội đất và số lượng du khách quốc tế đến vương quốc Anh. Hơn nữa nỗi sợ mập phì của người tiêu dùng đang hướng họ tới nguồn thực phẩm an toàn có lợi cho sức khoẻ. Mặc dù những nhân tố này bất tác động đến chuyện bán hàng, nền công nghề dịch vụ thực phẩm Anh vẫn tỏ ra linh động hơn cả sự mong đợi của các nhà phân tích và các chuyên gia (nhà) với sự tăng trưởng 25% từ năm 1999 và vươn tới giá trị hàng hoá bán ra là 26.5 tỉ trong năm 2004 (theo Mintel). Đơn vị số lượng khách hàng của dịch vụ này đứng ở mức 177.6 nghìn vào năm 2003, tăng 6.8% so với năm 1999. Năm 2003 vừa có 5.224 triệu vụ giao dịch, tăng 15.6% so với năm 1999 (theo Euromonitor). Thức ăn nhanh tiếp tục thể hiện sự tích cực của nó trong suốt giai đoạn vừa qua khi chiếm 53.6% các giao dịch về dịch vụ thực phẩm năm 2003, vượt mức thị phần của nó 52.2% vào năm 1999 (theo : Euromonitor)

THÀNH TỰU

Trong các năm 2004 và 2005, KFC vừa khởi nguồn thành công với một chiến dịch mang tên “singing soul” tiếp bước từ sự thành công của chiến dịch “Soul Food” năm 2003 và 2004. Chiến lược “Soul Food” vừa giúp KFC làm ra (tạo) được một hệ thống nhận diện thương hiệu trả chỉnh và xây dựng được một mối quan hệ tốt đẹp với khách hàng. Thừa hưởng sự thắng lợi đó, “singing soul” hiện nay vừa đưa thương hiệu KFC phát triển vượt bậc.
Tập đoàn KFC đặt cơ sở tại Louisville, với một hệ thống nhà hàng các món gà phổ biến nhất thế giới. Ở nước Anh KFC vừa xây dựng cho mình 1 hệ thống 680 kho hàng dùng cho dự trữ gà. Toàn bộ KFC thuộc sở có của tập đoàn Yum đang hoạt động với hơn 33.000 nhà hàng trên hơn 100 nước trên thế giới. Bốn công ty KFC, Pizza Hut, Taco Bell và Long Jonh Siver là những thương hiệu hàng đầu của Yum toàn cầu! Những công ty này mở khoảng ba quán ăn mỗi ngày và là những nhà hàng công nghề bán lẻ quốc tế lớn mạnh nhất.

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH

Năm 1939 Colonel Harland Sander giới thiệu với thế giới mùi vị sản phẩm sáng làm ra (tạo) nhất của mình, công thức nguyên bản của món Gà rán Kentucky. Từ đó hàng triệu người trên thế giới vừa rất thích thú đến nhà hàng của ông để thưởng thức các món ăn kèm theo bánh bích quy tươi và nóng.

Colonel Harland Sandner sinh ngày 9 tháng 9 năm 1890, bắt đầu tích cực tham gia (nhà) vào công cuộc kinh doanh thịt gà của mình ở độ tuổi 65. Hiện nay doanh nghề KFC mà ông gây dựng vừa lớn mạnh trở thành một trong những hệ thống dịch vụ cung cấp thức ăn nhanh lớn nhất thế giới. Và Colonel Sander một người tiên phong cho dịch vụ nhà hàng ăn nhanh vừa trở thành một biểu tượng của tinh thần điều hành.

Cha của Colonel mất khi ông 6 tuổi và mẹ ông buộc phải đi làm, để ông chăm nom cậu em trai 3 tuổi và cô em gái nhỏ. Điều này cùng nghĩa với chuyện ông phải lo tất cả công chuyện nội trợ trong gia (nhà) đình và năm 7 tuổi ông vừa biết nấu một vài món ăn đất phương. Năm 10 tuổi ông nhận được công chuyện đầu tiên ở một trang trại gần đó với mức lương 2$ một tháng. Năm 12 tuổi, mẹ ông tái giá và ông rời khỏi nhà đến làm chuyện ở trang trại. Ông làm một loạt các công chuyện trong một vài năm tiếp theo, đầu tiên là lái tàu, sau đó là một binh nhì 16 tuổi đi lính 6 tháng ở Cuba rồi làm lính cứu hoả trong ngành đường sắt, học luật, thực hành tại những phiên toà hoà giải của toà án, bán bảo hiểm, làm ở bến phà tàu nước sông Ohio, bán lốp xe và làm ở nhà ga.

Năm 40 tuổi ông bắt đầu nấu ăn cho những vị khách du lịch đói bụng dừng chân ở sân ga ở Corbin, Kentucky. Ông bất có một nhà hàng nào cả mà phục vụ trên một cái bàn ăn tối của ông trong một phần tưphòng chốngkhách của ga.

Khi có thêm nhiều người biết đến các món ăn của mình, ông chuyển sang một nhà hàng và khách sạn với 142 chỗ ngồi. Hơn 9 năm sau ông vừa hoàn thành một thực đơn trả chỉnh và các kĩ thuật nấu ăn căn bản vẫn được sử dụng để làm gà cho đến hết ngày hôm nay. Tên tuổi của Sander ngày càng nổi tiếng, thống đốc Ruby Laffoon phong ông làm lớn tá ở Kentucky năm 1935 công nhận đóng lũy của ông trong chuyện tạo ra kĩ thuật nấu nướng. Tuy nhiên vào đầu nhũng năm 50 một lớn lộ giữa các tiểu bang vòng qua thị trấn của Corbin được lên kế hoạch xây dựng, Sander bán đấu giá các tài sản khi nhận thấy đây là điểm kết thúc cho công chuyện kinh doanh của mình. Tin tưởng vào chất lượng thịt gà rán của mình, ông vừa đi du lịch vòng quanh đất nước bằng ô tô từ nhà hàng này đến nhà hàng khác, nấu món gà cho các chủ nhà hàng để họ nhận xét. Sẽ có một bản hợp cùng thỏa thuận nhà hàng sẽ trả cho ông một Niken khi muốn bán thịt gà rán của ông.

Năm 1964 Sander có thêm hơn 600 lớn lí được cấp quyền kinh doanh thịt gà ở Mỹ và Canada. Vào năm đó ông vừa chuyển nhựợng niềm đam mê của mình cho Jonh Brown, người sau này là thống đốc bang Kentucky từ năm 1980 đến năm 1984, với giá 2 triệu USD. Tuy nhiên KFC một lần nữa thay đổi chủ, Heublien Inc giành được KFC với 285 triệu đôla vào ngày 8 tháng 7 năm 1971, Heublien vừa phát triển hơn 3.500 nhà hàng rộng lớn rãi trên toàn thế giới. Sau đó Kentucky lại trở thành một thành viên của Pepsi Co và đến tháng 1 năm 1997 Pepsi Co Inc thông báo về chuyện tách các nhãn hiệu con của nó, họ gộp chung 4 nhãn hiệu KFC, Taco Bell và Pizza Hut thành một công ty độc lập là Tricon Global Restaurants.

Vào tháng 5 năm 2002 công ty tuyên bố thay đổi tên thành Yum. Công ty này sở có A&W, All – American Food Restaurants, hệ thống các nhà hàng KFC, Long Jonh Silvers, Pizza Hut và Taco Bell, đây là một công ty lớn nhất thế giới về số lượng quán ăn, nhà hàng với gần 32.500 lớn lí trên hơn 100 nước trên thế giới.

SẢN PHẨM

Sản phẩm chủ yếu của KFC là Buckets, Burgers và Twisters và thịt gà Colonel Crispy Strips với những món ăn thêm mang phong cách quê hương. Nhưng vào năm 2001 KFC vừa tiến hành lập kế hoạch phát triển sản phẩm mới cho mình và “Soul Food” chính là sản phẩm mới trong chiến lược đó.

Sản phẩm “Soul Food” đầu tiên được bán tại các cửa hàng là “Thịt gà salat ấm”. Sự thành công của “Soul Food” vừa dẫn tới một sự thay đổi mới cho KFC. Trước khi có sự xuất hiện của “Soul Food” thì đơn giá thấp nhất trong thực đơn của KFC là 2.99$ và đây là một chướng ngại vật trong chuyện làm thế nào để thu hút khách hàng. Trong khi đó từ khi có sự xuất hiện của “Soul Food”, thì lúc này giá cả được xem xét theo một cách khác, giá trị của sản phẩm mang lại cho khách hàng đúng với số trước họ bỏ ra khiến họ cảm thay thoải mái và hài lòng cùng thời cũng trung thành hơn với sản phẩm.

NHỮNG PHÁT TRIỂN GẦN ĐÂY

Triết lý của “Soul Food” vừa tạo nên một tác động thực sự trên toàn bộ hệ thống cửa hàng của KFC. Các cửa hàng được thiết kế theo nguyên lý triết học, “Soul Food” vừa thể hiện chính nó trong tất cả tất cả khía cạnh truyền thông, từ cửa sổ, áp phích quảng cáo đến bảng thực đơn và cùng phục của nhân viên. Các cửa hàng và thực đơn vừa được chuẩn hóa, những màu đỏ tươi, xanh và vàng được thay thế bằng những màu sắc tự nhiên.

KHUYẾN THỊ

Đầu năm 2003 chuyện kinh doanh của KFC rơi vào một trả cảnh đầy thử thách. Thị trường thức ăn nhanh sụt giảm, KFC phải vật lộn với sự tăng trưởng của các đối thủ cạnh tranh từ bánh pizza, siêu thị thức ăn sẵn và số lượng lớn cửa hàng bán lẻ bánh sanwich. Hơn nữa các phương tiện truyền thông tập trung vào các mặt bất tốt của thức ăn nhanh. Bởi vậy những người chủ trong lĩnh vực thức ăn nhanh vừa trải qua những sự suy sụp đáng kể. Để vượt qua thử thách này KFC nên phải kiểm tra lại bất chỉ sản phẩm, mà còn hình ảnh của mình.

“Soul Food” được sáng làm ra (tạo) bởi BBH vừa chứng tỏ mình là một sự sáng làm ra (tạo) mang lại hiệu quả với mỗi sản phẩm khác nhau thì sẽ có một thông điệp hình ảnh sản phẩm khác nhau, một sản phẩm quảng bá tốt thì sẽ làm ra (tạo) được một cảm nhận tốt với khách hàng của mình. “Soul Food” vừa thành công trong xây dựng mối quan hệ của khách hàng và làm ra (tạo) ra một ấn tượng tốt với khách hàng về sản phẩm. Thực vậy với quảng cáo thành công của mình, “Soul Food” vừa thu hút và liên kết được với khách hàng và được khách hàng công nhận với khẩu hiệu “people like me”.

GIÁ TRỊ THƯƠNG HIỆU

Mục tiêu của thương hiệu KFC là mang đến với người tiêu dùng một thương hiệu hàng đầu về thực phẩm, sáng làm ra (tạo) ra sự tươi sáng và vui nhộn cho tất cả tất cả người ở tất cả lứa tuổi. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng, hiện nay KFC được hiểu coi nhưmột nhãn hiệu vui nhộn và bao hàm nhiều ý nghĩa. Giá trị chính của chiến lược “Soul Food” vừa được khách hàng hiểu và chấp nhận.










Ketnooi.com/forum/ - Kênh tiếp cận khách hàng mới của bạn

Liên hệ quảng cáo trên http://ket-noi.com/forum/


Mobile: 093 777 7963

Email: ads (at) Ketnooi.com/forum/

 
Thương hiệu thứ 7_LEXUS(Monday,Dec 15th 2008)




Lexus_ Thương hiệu hàng đầu


Vào giữa những năm 1980, Chủ tịch tập đoàn Toyota Motor Corporation (Eiji Toyoda) quyết định rằng để tập đoàn có thể phát triển trên toàn thế giới thì nên phải có một sản phẩm chủ chốt. Đó chính là Lexus, một thương hiệu được coi là tiêu chuẩn trong thiết kế, chuyên môn sản xuất và giá trị cùng tiền.


Người Australia mỗi năm mua khoảng 50.000 phương tiện đi lại sang trọng và có uy tín - chiếm khoảng 8% số lượng xe cộ được bán ra.


Không dưới 27 hãng sang trọng sản xuất với hơn 130 kiểu dáng khác nhau. Một số nhà phân phối chỉ đưa ra 5 mẫu trong một năm, còn các số khác là 8.000.


Thuế chính phủ bao gồm thuế mặt hàng xa xỉ là 45% giá bán lẻ của 55.134 đô và thuế lợi nhuận giá giới hạn tiềm năng thực sự của thị trường xa xỉ phẩm. Nhưng ngược lại thuế dịch vụ và sản phẩm có thể làm ra (tạo) ra một số sự hỗ trợ vì các chi phí chính phủ vừa được thoả thuận.


THÀNH TỰU


Lexus vừa trở thành thương hiệu đầu tiên thành công từ những năm 1990 và nó được nhiều nhà marketing đánh giácoi nhưthương hiệu của thập kỷ bất chỉ riêng trong ngành ôtô mà nói chung trong các ngành.


Ở Mỹ, Lexus trở thành kiểu mẫu sang trọng duy nhất được bán ra với số lượng lớn nhất.


Ở Australia, Lexus nhanh chóng trở thành sản phẩm sang trọng. Doanh thu bán ra của Lexus trong năm 1998 vừa tăng hơn 50% so với 1876 do sự xuất hiện của một số mẫu mới như chiếc xe thể thao mui kín GS300 và chiếc LX470 4x4.




Năm 1999, doanh thu vừa tăng thêm 60% từ 12 đến 20 và chủ hãng vừa đầu tư thêm hơn 40 triệu đô vào những tiện nghi mới.


Theo nghiên cứu của J.D. Power, trên toàn cầu, hãng xe Lexus được đánh giá như một phương tiện ít hỏng hóc nhất trên thế giới trong năm thứ 5 thành công của mình.


Lexus vừa nhận được hơn 40 bản đánh giá cao của J.D. Power kể từ khi được thành lập như một thương hiệu năm 1990.


Các giải thưởng khác còn gồm có: The prestigious Wheels Car of the Year (năm 1990) cho chiếc limous LS400, Four Wheel Drive Wagon of the Year (năm 1999) do 2 tạp chí Overlander và Bushdriver bình chọn cho chiếc LX470.


Có lẽ điều quan trọng nhất là thành công của chương trình khách hàng trung thành của công ty Lexus Encore - được đánh giá như một chương trình chuẩn của ngành công nghiệp. Sự kết hợp giữa phương tiện tuyệt cú hảo và tiềm năng làm hài lòng khách hàng vừa giúp Lexus có kỷ sáu công nghề tốt hơn 65% các hãng khác.


LỊCH SỬ HÌNH THÀNH


Vào giữa những năm 1980, Chủ tịch tập đoàn Toyota Motor Corporation (Eiji Toyoda) quyết định rằng để tập đoàn có thể phát triển trên toàn thế giới thì nên phải có một sản phẩm chủ chốt. Đó chính là Lexus, một thương hiệu được coi là tiêu chuẩn trong thiết kế, chuyên môn sản xuất và giá trị cùng tiền. Nói chung, Lexus là một thương hiệu vừa thử thách rất nhiều các quy luật trong ngành công nghề xe hơi sang trọng. Những bài học vừa qua trải nghiệm có thể là đường hướng cho toàn bộ tập đoàn Toyota.


Các bậc trước bối của Eiji Toyota vừa đi tiên phong trong cuộc cách mạng công nghiệp. Họ vừa thiết kế và xây dựng khung dệt vải tự động tốt nhất thế giới và thay đổi trả toàn bộ mặt của ngành công nghề dệt may thế giới. Các kỹ năng sản xuất của họ từ đó tới nay vẫn được đánh giá là đi đầu trên thế giới.


Hơn 4 triệu đô vừa được đầu tư vào chương trình ban đầu của Lexus. 1500 công nhân vừa làm chuyện trong vòng 6 năm để xây dựng hình ảnh sản phẩm chủ chốt đầu tiên - Limous LS400. Lexus là chữ viết tắt của Luxury Export to the US - thị trường mục tiêu ban đầu của Lexus. Rất nhiều đội ngũ công nhân vừa sống tại Calofornia để tìm hiểu phong cách sống tại đây.


Một đội vừa dành trọn một năm tìm kiếm một loại gỗ chuẩn trả hảo để làm tấm gỗ chắn. Còn đội khác thì được phân công thiết kế hình dáng của phần động cơ. Kỹ thuật hàn laze một thời (gian) chỉ là mơ ước nay vừa được thực hiện trên Lexus, đảm bảo được độ cứng và bền.


Chương trình thử nghiệm xây dựng trị giá 1,2 tỉ đô vừa tái làm ra (tạo) lại con đường lớn nhất thế giới - con đường sỏi đá từ Bỉ, con đường trải dài từ Germany’s Black Forest (rừng đen Đức) và một đường đua F1 đầy bản lĩnh là một trong những yếu tố trong chương trình đó.


Chiếc Lexus LS400 đầu tiên được bán ra tại thị trường Australia với giá 105.000 đô - rẻ hơn 15% so với Jaguar, 40% so với BMW và 80% so với một chiếc S-class Mercedes-Benz. Lexus vừa thành công trong chuyện sản xuất một chiếc xe tốt hơn và rẻ hơn. Kiểu dáng của chiếc xe vừa tạo nên một bước đột phá về trên toàn cầu, bất chỉ ở giá cả mà cả ở công nghệ sản xuất và thiết kế trở-lại-cội-nguồn của mình.


Kiểu dáng cạnh tranh ngày càng trở nên tốt hơn và rẻ hơn mặc dù điều đó bất gắn liền với tỉ lệ giá trị trước mạnh của Lexus. Năm 1999, chiếc LS400 vẫn có rẻ hơn 70.000 đô so với một chiếc Mercedes-Benz tương đương.


Điều đáng kể là thoả thuận của Eiji Toyota vừa được trả tất. Hiện nay các loại của Toyota Echo luôn tự hào về bộ khung xe rất an toàn và mức độ chấn động tiếng ồn và kiểm soát va chạm được coi là loại dẫn đầu nhờ vào mẫu của Lexus.


SẢN PHẨM


Lexus là thương hiệu có một kiểu dáng duy nhất đầu tiên. Chiếc xe limous LS400 quadcam 32, động cơ V8 vừa dành 2 năm để xây dựng được sự tín nhiệm ở thị trường môtô khắt khe nhất. Trước khi được liên kết với kiểu dáng khác, LS400 vừa độc lập trở thành chiếc xe sang trọng có số lượng bán ra lớn nhất ở Australia và được nhập khẩu nhiều nhất vào Mỹ.


Hiện nay ở Australia, Lexus vừa cho ra mắt 5 đời xe tất cả - từ mẫu hiện nay là xe mui kín IS200 cho tới LS400.


Giữa 2 đời xe này còn có ES300, động cơ V6; xe thể thao mui kín GS600 có cam đôi, 6 mạch liền; và chiếc thể thao LX470 được coicoi nhưloại xe 4 bánh tốt nhất tại thị trường Úc.


Chiếc IS200 được coi là một chuẩn cho loạt xe kém sang trọng hơn. Gầm của xe này được đánh giá là tốt nhất so với các xe khác cùng loại. Với quadcam 2.0 sáu động cơ, 6 loại tốc độ điều khiển hay 4 loại tốc độ tự động, IS200 đang được giới thiệu tới những khách hàng mua đầu tiên về hiệu xuất của máy phụ thuộc trên những mong muốn của họ.


IS200, GS300, LX470 và LS400 được trang bị bộ van điều chỉnh thời (gian) gian (nhiều) đa dạng thông minh. Lượng khí, năng lượng đưa vào và mức độ thải ra vừa được điều chỉnh để có thể đạt hiệu xuất tốt nhất và đảm bảo về vệ sinh môi trường. LX400 với hệ thống giảm sóc điện được cải tiến nhằm giảm tối (nhiều) đa độ sóc so với những chiếc khác.


NHỮNG PHÁT TRIỂN GẦN ĐÂY


Lexus gần đây với Brisbane đặc biệt là bước tiến chủ yếu vào Lexus Owner Club với một chiếc bàn billard,phòng chốngtập thể thao toàn diện, mạng lưới làm chuyện trực tuyến và cửa hàng trưng bày trang sức Hardy Brother mái vòm, Louis Vuitton và nhà thiết kế thời (gian) trang Alex Perry.


Việc đầu tư vào chương trình khách hàng trung thành chính là nhân tố khác biệt chính của Lexus với các đối thủ cạnh tranh. Chương trình Lexus’ Encore có sự ưu đãi xem nghệ thuật tại các trung tâm đối với các khách hàng. Tại Nhà hát Opera House Sydney, các khách hàng Lexus được phép đỗ xe tại một khu vực riêng. Mặt khác, khách hàng của hãng cũng có thể mua được vé của những show diễn khó nhất. Khách hàng có thể mua hàng điện tử, dịch vụ điện hi sinh và các thông tin qua đường dây nóng của Lexus. Hơn nữa, họ cũng có thể chơi golf, gamefish và tham gia (nhà) môn polo theo chương trình được thiết kế riêng.


Con số người mua tăng gần gấp đôi tính tới cuối năm 2000, dự tính sẽ có thêm 4000 khách hàng mới mỗi năm tham gia (nhà) vào tất cả các dịch vụ.


Điều quan trọng hơn là trong khi các hãng cạnh tranh chỉ áp dụng chương trình khách hàng trung thành phụ thuộc theo mức độ mua bán phương tiện thì Lexus lại áp dụng trên toàn cầu.


Lexus có rất nhiều những cách tân. Đồng hồ đo mét NVH cho phép đo tốc độ di chuyển trong một phút nay vừa được thiết kế sử dụng cho tất cả khách hàng. Lexus còn nổi tiếng bởi sự êm và bất gây ồn của động cơ. Lexus sẽ cho kiểm tra từng chiếc xe thông qua dịch vụ thường xuyên để đảm bảo các thông số kỹ thuật nghiêm ngặt.


KHUYẾN THỊ


Sự giới thiệu của khách hàng đang sử dụng chính là hình thức khuyến thị chính của Lexus. Lexus sắp xếp rất nhiều sự kiện quan trọng như The Three Tenors Concert, The Bee Gees One Night Only. Các khách hàng luôn nhận được sự đón tiếp nồng nhiệt đặc biệt. Ghế đệm lưng Lexus và áo pôchô dùng cho thời (gian) tiết ẩm ướt được cung cấp ở những nơi gặp mặt ngoài trời. Chương trình Lexus Legends Golf toàn quốc vừa cho thấy sự thân thiện giữa các ông chủ. Chương trình 10 năm của Lexus Marlin Classic tại Great Barrier Reef vừa tạo thời cơ cho các ông chủ ở Australia và cả ở nước ngoài.


Quảng cáo lũy phần củng cố thêm thông điệp vừa được các khách hàng đưa ra. Sự ra mắt của IS200 của Lexus vừa tạo ra một thời cơ cho chuyện quảng cáo trong các câu lạc bộ và các cửa hàng thời (gian) trang. Hai mươi nhân vật trẻ Australia vừa được chọn để lái thử xe IS200 trong vòng một năm. Lexus khuyến khích những người dưới 35 tuổi sử dụng IS200 để quảng cáo cho công chuyện làm ăn của công ty mình.


GIÁ TRỊ THƯƠNG HIỆU


Xét ở góc độ sản xuất mục tiêu “theo đuổi sự trả hảo” chính là đường lối chính của hãng. Xét ở góc độ đối xử với khách hàng thì chuyện “đối xử với mỗi khách hàng như thể họ là khách trong chính ngôi nhà của mình” chính là điểm chính để làm ra (tạo) nên sự khác biệt.


Chưa đầy một thập kỷ, Lexus vừa trở thành phương tiện trong chuyện thay đổi những mong muốn của khách hàng trong thị trường xe hơi sang trọng.


Giá trị trước đã trở nên cần thiết như một yêu cầu trong một phần của sự sang trọng như trong các thị trường ôtô.


Lexus bất chỉ thay mặt cho sự thành công hiện tại của nhà sản xuất ôtô lớn nhất Nhật Bản mà còn là biểu tượng của kỹ thuật sản xuất chính xác, kỹ thuật vừa có từ hàng thế kỷ trước, rất lâu trước sự phát triển của kỹ thuật tương tự tại Châu Âu.


NHỮNG ĐIỀU CÓ THỂ BẠN CHƯA BIẾT VỀ LEXUS

· Hơn 2.300 kỹ sư vừa làm chuyện trong vòng 7 năm để cho ra đời mẫu xe Lexus đầu tiên. Một số kỹ sư sống tại California và miền Nam nước Pháp trong một năm để tìm hiểu rõ hơn về nhu cầu và thị hiếu của khách hàng.


· Số trước dành cho chuyện phát triển xe Lexus đầu tiên vừa vượt quá 1 tỉ đôla Mỹ (trong những năm 1980). Chiếc LX400 có hơn 100 bằng sáng chế.


· Các kỹ sư Lexus vừa nghiên cứu động cơ máy để nhằm giảm thiểu tiếng ồn. Họ còn thiết kế các thành phần chính để hạn chế tiếng ồn và sự rung ở điểm bắt nguồn chứ bất ở chuyện tăng trọng lượng xe bằng chuyện thêm nguyên liệu hút âm thanh.


· Công nghệ trong loại xe LX400 bao gồm thiết bị Optitron, thiết bị này chuyển màu khi ổ khoá điện mở. Công nghệ được áp dụng là sự chiếu sáng giãn nở chân không, nó làm phát sáng những điểm cho trước ở phía sau màn hình. Một thế kỷ vừa trôi qua nhưng hệ thống này của Lexus vẫn được coi là tốt nhất trên thế giới.


· Công nghệ vật liệu và sản xuất của Lexus LS400 đầu tiên gồm có tấm thép giảm độ rung, kỹ thuật hàn laser cho các bản panen và kiểm tra hình ảnh trả thành đầu hàn vi phân và bánh răng bằng hồng ngoại.


· Những bước đột phá công nghệ gần đây là chuyện điều khiển sự ổn định của phương tiện và van điều chỉnh thời (gian) gian thay đổi rất thông minh và (nhiều) đa dạng.


· Trong vòng 30 năm trở lại đây, Lexus là loại phương tiện gặt hái được nhiều thành công nhất. Thị trường của nó từ những đất điểm ban đầu vừa sang tới Mỹ và Trung Đông trong vòng nửa thập kỷ.


· Lexus vừa tạo nên một bước tiến trong ngành công nghề xe hơi sang trọng trong cả sản phẩm và dịch vụ. Không có một nhà sản xuất cạnh tranh nào có thể giữ một mẫu sản phẩm trong vòng 10 năm. Các khách hàng mua phương tiện giá trên 100.000 đô được tiếp đãi theo các cách đặc biệt.


· Tôn chỉ của Lexus là đáp ứng, thoả mãn yêu cầu của khách hàng và làm ra (tạo) cho khách hàng sự ngạc nhiên. Dịch vụ khách hàng đặc biệt của Lexus gồm có chuyện phục hồi và trả lại xe cho khách hàng và tặng socola cho mỗi khách hàng đó.


===>> Starting a new day with smiling









Ketnooi.com/forum/ - Kênh tiếp cận khách hàng mới của bạn

Liên hệ quảng cáo trên http://ket-noi.com/forum/


Mobile: 093 777 7963

Email: ads (at) Ketnooi.com/forum/

 

Pepe

New Member
Vừa tỉnh dậy ôn bài, hơi buồn ngủ một chút, làm một lon cocacola cho tỉnh ngủ.

Thương hiệu thứ 8: COCACOLA(Tuesday, Dec 16th 2006)



Sự sảng khoái bất tận
Thương hiệu Coca-Cola là thay mặt cho sản phẩm thành công nhất trong lịch sử thương mại và cả những con người xuất sắc làm nên một sản phẩm tuyệt cú cú cú cú cú cú vời như thế này. Qua hơn một thế kỉ với nhiều thay đổi và một thời (gian) đại mới đang mở ra cũng đang đổi thay bất ngừng, Coca-Cola vẫn giữ vững biểu tượng của sự tin cậy, sự độc đáo vốn có và sự sảng khoái tuyệt cú cú cú cú cú cú vời.

THỊ TRƯỜNG

Thương hiệu hàng đầu thế giới Coca-Cola được xem là một biểu tượng mang lại sự sảng khoái cho tất cả tất cả người. Kiểu dáng quen thuộc và nổi bật của chai Coca-Cola cũng như sự khác biệt của nhãn hiệu vừa trở thành một phần cuộc sống của người tiêu dùng. Thật vậy, cứ mỗi phút trong mỗi ngày lại có một người uống một trong những sản phẩm của Coca-Cola như – Coca classic, diet Coca , hay Coca-light với nhiều mùi như vani, cherry hay chanh có hay bất có caffeine.


Nước uống có gas luôn là một phần của phong cách Mỹ từ hơn 100 năm nay và vẫn giữ vững vị trí nước uống mang lại sự sảng khoái nhất. Theo số liệu thực tế cho thấy, một trong bốn loại nước uống được tiêu thụ nhiều nhất ở Mỹ hiện nay là loại nước có gas, trong đó doanh số bán lẻ đạt đến con số 61 tỉ USD mỗi năm.

THÀNH TÍCH ĐẠT ĐƯỢC

Từ khi được thành lập và đặt trụ sở chính tại Atlanta, bang Georgia, tập đoàn Coca-cola hiện đang hoạt động trên 200 nước khắp thế giới. Thương hiệu Coca-cola luôn là thương hiệu nước ngọt bán chạy hàng đầu và tất cả tất cả người trên thế giới đều yêu thích Coca-cola hay một trong những loại nước uống hấp dẫn khác của tập đoàn. Ngày nay, tập đoàn Coca-cola vừa thành công trong công cuộc mở rộng lớn thị trường với nhiều loại nước uống khác nhau ban đầu là nước có gas, và sau đó là nước trái cây, nước tăng lực cho thể thao, nước suối, trà và một số loại khác.


Từ những ngày đầu tiên, Coca-cola vừa luôn là một phần bất thể thiếu được trong các sự kiện lớn ở Mỹ và khắp trên toàn thế giới. Trong thế chiến thứ II, công ty vừa đảm bảo rằng mỗi thành viên của quân đội Mỹ sẽ có được một ly Coke với giá 5 xu và bất tính thuế hay các giá trị khác của công ty. Để đảm bảo được chuyện này, công ty vừa xây dựng các nhà máy đóng chai tại 64 điểm ở khu vực Châu Âu, Châu Phi và Thái Bình Dương. Với nỗ lực trong chiến tranh này vừa giúp công ty tiến xa hơn thị trường Bắc Mỹ, khẳng định được vị thế của tập đoàn với sự phát triển lớn mạnh thần tốc sau chiến tranh thế giới II.

Những cột mốc lịch sử quan trọng của Coca-cola trong 25 năm bao gồm sự xâm nhập thị trường Liên bang Xô Viết, sự xuất hiện trở lại sản phẩm của Coca-cola tại Trung Quốc vào năm 1979, và sự có mặt của Coca-cola trong nhiệm vụ phóng tàu con thoi Thách thức (The Challenger) năm 1985. Coca-cola còn tổ chức lễ kỉ niệm 100 năm thành lập vào 1986 và tài trợ chính thức cho thế vận hội mùa hè năm 1996 ở Altanta.

LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN

Vào ngày 08/05/1886, dược sĩ John Stith Pemberton vừa chế ra một loại sirô sữa và bán nó cho một cửa hàng dược phẩm lớn nhất Altanta. Nhưng sau 5 năm kinh doanh loại sirô này chỉ với 9 sản phẩm bình quân được bán trong một ngày, Pemberton vừa không thể nhìn thấy sự thành công của sản phẩm do chính ông làm ra (tạo) ra. Ông mất vào năm 1888, cùng năm với sự xuất hiện của nhà doanh nghề Asa G. Candler mua lại cổ phần của Coca-cola.


Trong 3 năm, Candler và hiệp hội của ông ta quản lý công ty với nguồn đầu tư là 2,300 nghìn USD. Công ty đăng kí tên nhãn hiệu là “Coca-cola” với vănphòng chốngU.S Patent vào năm 1893 và đổi mới nó bằt đầu từ lúc đó. (“Coke” là tên nhãn hiệu từ năm 1945)

Năm 1895, những nhà máy sản xuất đầu tiên ngoài Atlanta được mở cửa tại các bang như Dallas, Texas, Chicago, Illinois và Los Angeles, California. Ông Candler vừa báo cáo cho các cổ đông rằng Coca-Cola đang được bán tại “mỗi bang và mỗi vùng trên toàn nước Mỹ.”


Vì sản lượng tiêu thụ tăng cao, các nhà kinh doanh trong tập đoàn vừa tìm kiếm thêm loại hình tiêu thụ mới bằng cách bán nước có gas coca-cola trong chai. Hoạt động đóng chai bắt đầu khi Benjamin F.Thomas và Joseph B.Whitehead của Chartanooga, ban Tennessee, được trao quyền quyết định từ ông Asa Candler để thi hành và bán Coca-cola trên hầu hết các miền của đất nước. Họ giao cho từng thành viên liên quan các vùng riêng biệt để xây dựng các hoạt động đóng chai. Những nỗ lực này vừa xây dựng nên nền móng vững chắc cho những thành công lớn, làm ra (tạo) nên một hệ thống rộng lớn khắp các công ty đóng chai Coca-Cola.

Phản ứng của công ty trước những đối thủ đang chạy theo cách thức kinh doanh này là sự ra đời của một trong những loại chai đựng nước uống có gas nổi tiếng nhất - loại chai Coca-cola nổi bật, đặc biệt và độc nhất. Nó được làm ra (tạo) ra bởi công ty Root Glass của Ấn Độ vào năm 1915 và được nâng cao tiêu chuẩn bởi các nhà nghiên cứu vỏ chai trong tập đoàn vào các năm sau đó.


Năm 1911, một nhóm đầu tư mà người dẫn đầu là Ernest Woodruff, chủ ngân hàng Atlanta, vừa mua lại công ty Coca-Cola từ các cổ đông của Candler. Bốn năm sau, Robert W.woodruff, con trai 33 tuổi của Ernest trở thành chủ tịch tập đoàn và dẫn dắt công ty đi vào thời (gian) kì mới của sự phát triển trong và ngoài nước qua hơn 6 thập kỉ sau đó.

Từ thời (gian) gian của Woodruff, Coca-Cola vừa luôn đề cao giá trị và quyền công dân. Ngày nay, một phần lời hứa của Coca-Cola “mang lại lợi ích và sự sảng khoái cho tất cả những ai được chúng tui phục vụ”, công ty phấn đấu làm ” tươi mới” thị trường, làm phong phú nơi làm việc, bảo vệ môi trường và củng cố truyền thông công chúng. Qua quá trình hoạt động từ những bước đầu tiên và phát triển trên những con đường khác nhau, các nỗ lực về nhân đức của công ty đều tập trung vào giáo dục và xây dựng ước mơ tuổi trẻ. Ngoài ra, trong 5 năm gần đây, 1 tỉ USD vừa được dành riêng cho chuyện đa dạng hoá thông qua sự giao phó toàn quyền và các chương trình cho các bộ phận nhân sự vừa tạo ra nhiều thời cơ cho các cá nhân và các nhà kinh doanh nhỏ.

SẢN PHẨM

Cuộc sống là một chuỗi các khoảnh khắc đáng nhớ kết nối với nhau và trong mỗi khoảnh khắc ấy là một thời cơ cho Coca-cola làm ra (tạo) nên một chút nhiệm màu. Từ cách nhìn và cảm nhận kiểu dáng của vỏ chai cho đến ấm thanh sôi nổi, hành động khui nắp chai bắn lên mũi và hơn cả là mùi vị đặc trưng riêng rất tuyệt cú cú cú cú cú cú vời của Coca-Cola chảy xuống cổ; tất cả làm ra (tạo) nên một cảm giác thật đặc biệt mà Coca-Cola là một chuyên gia (nhà) hàng đầu vừa tạo nên những cảm giác đặc biệt ấy. Nhưng với cảm xúc của người tiêu dùng, những ký ức và giá trị là quan trọng hơn cả.


Người tiêu dùng rất thích tìm hiểu những nguyên liệu bí mật (an ninh) trong Coke; nhưng bí mật (an ninh) bị luôn bị khóa chặt. Tuy vậy, một bí mật (an ninh) khác lại được mở ra cho tất cả tất cả người cùng biết: chất lượng bất thay đổi của sản phẩm Coca-Cola được sản xuất với vỏ chai tại Mỹ. Và điều này thất rõ qua sự nâng cao chất lượng sản phẩm trong tổng danh sách vốn đầu tư của các thương hiệu gồm có Coca-Cola cổ điển (classic), Coke ít gas (diet Coke), Sprite, Fanta, Coke hương Vani (Vannilla Coke), Coke hương anh đào (Cherry Coke) , Barq, Mello Yello, nước suối Dasani, và cả một dòng sôda Minute Maid, nước trái cây tươi, và nước trái cây đóng hộp.

NHỮNG PHÁT TRIỂN GẦN ĐÂY

Tập đoàn Coca-Cola đang tiếp tục làm ra (tạo) mối liên kết với người tiêu dùng qua nhiều cách thức sôi động và thú vị khác nhau, từ sự giới thiệu thành công các sản phẩm mới và vỏ chai có các đặc tính cải tiến.


Sự giới thiệu sản phẩm mới gần đây mang lại cho người tiêu dùng nhiều cách thức thưởng thức vị ngon của Coca-Cola. Vanilla Coke được xem là một trong những giới thiệu thành công nhất của nước có gas thời (gian) điểm gần đây trong khi Vanilla Coke và Coke hương chanh cung cấp nhiều mùi vị hơn cho người thích uống nước ít gas. Công ty vẫn đang dẫn đầu trong công cuộc cải tiến bao bì với sự ra đời của vỏ chai loại 12 chai một vỉ Coca-Cola Fridge vừa dài hơn, vừa thon hơn để bỏ vào tủ lạnh dễ dàng.

Thiết kế mới của Coca-Cola một phần nào đó giúp cho thương hiệu vẫn thích hợp với người tiêu dùng ngày nay. Đặc tính nhận dạng mới được giới thiệu vào năm 2003 đưa ra giải thích tạm thời (gian) về các nhân tố truyền thống như nguyên bản Spencerian, sảng khoái với nút mở dể nhìn hơn; bên dưới là hình dạng dây băng cuốn hút với nhiều dải băng màu trắng, màu vàng và bạc; và những bọt gas trông rất sôi nổi.


Một bản báo cáo tổng quát về lịch sử, sự phát triển và những hoạt động hiện thời (gian) của tập đoàn Coca-Cola hiện đang có mặt trên trang web
click here
KHUYẾN THỊ

Các nổ lực khuyến thị của Coca-Cola bắt đầu với biểu tượng “Uống Coca-Cola” trên vải dầu ở các mái hiên nhà thuốc. Asa Candler sau đó đặt tên nhãn hiệu mới bất chỉ trên các chai nướt ngọt mà còn trên quạt máy, lịch và cùng hồ. Từ ngày đó, nổ lực tiếp thị và khuyến thị kết hợp với chất lượng tuyệt cú cú cú cú cú cú hảo của sản phẩm vừa giúp thương hiệu Coca-Cola trở thành một trong những thương hiệu được ngưỡng mộ và nổi tiếng nhất trên toàn thế giới.



Một trong những cách mà Coca-Cola vẫn giữ vững được mối quan hệ tốt đẹp với người tiêu dùng là luôn hoà nhập vào các hoạt động giải trí của họ. Lấy ví dụ như công ty tổ chức các hoạt động thể thao rộng lớn khắp để củng cố những điểm nổi bật riêng của thương hiệu. Lùi lại thời (gian) điểm năm 1903, Coca-Cola vừa sử dụng các cầu thủ của đội bóng chày nổi tiếng thời (gian) bấy giờ để quảng cáo. Và một trong những sự kiện thể thao nổi tiếng và còn tại lâu dài nhất, Thế vận hội Olympic vừa luôn nằm trong danh sách những sự kịên nổi bật được Coca-Cola tài trợ chính thức. Tập đoàn còn có mốt quan hệ giao có rất tốt với Liên đoàn bóng đá thế giới FIFA, NASCARR, Hiệp hội bóng chày và Giải Khúc Côn Cầu, Mỹ. Một loạt các bảng hợp cùng dài hạn với Hiệp hội vận động viên nước (nhà) đã giúp Coca-Cola kiếm được rất nhiều thời cơ tiếp thị lớn với 22 vận động viên và 87 quán quân trong mỗi năm.

GIÁ TRỊ THƯƠNG HIỆU

Thương hiệu Coca-Cola là thay mặt cho sản phẩm thành công nhất trong lịch sử thương mại và cả những con người xuất sắc làm nên một sản phẩm tuyệt cú cú cú cú cú cú vời như thế này. Đi cùng với Coca-Cola, một thương hiệu hàng đầu thế giới trong ngành nước giải khát có gas, vị thế của tập đoàn đứng thứ 4 trong số 5 thương hiệu nước ngọt hàng đầu thế giới, trong đó có diet Coke, Fanta và Sprite. Qua hơn một thế kỉ với nhiều thay đổi và một thời (gian) đại mới đang mở ra cũng đang đổi thay bất ngừng, Coca-Cola vẫn giữ vững biểu tượng của sự tin cậy, sự độc đáo vốn có và sự sảng khoái tuyệt cú cú cú cú cú cú vời.




Điều mà bạn chưa biết về Coca-Cola

· Nếu tất cả sản phẩm Coca-Cola được sản xuất trong loại chai 8 ounce và chất lên xe tải cỡ vừa, thì phải mất đến 6 năm, 4 tháng, và 7 ngày để những chiếc xe này đến được điểm dừng với vận tốc 65 dặm/giờ. Nếu sưu tập hết vỏ chai Coca-Cola, bạn sẽ có trong tay hơn 13 ngàn tỉ chai. Nếu đặt trên sân bóng bầu dục, núi vỏ chai sẽ có chiều cao 346 dặm, gấp 70 lần chiều cao của đỉnh Everest, đỉnh núi cao nhất thế giới.

· Khẩu hiệu,” Tuyệt cú cú cú cú cú cú vời đến giọt cuối cùng” (“Good to the last drop”) thường xuất hiện với các thương hiệu café, trước đây từng được Coca-Cola sử dụng vào năm 1908

· Nhãn hiệu Coca-Cola được 98% dân số thế giới biết đến.
 

winthang54

New Member
cho em hỏi
nồng độ ABV là gì ?và viết tắt của chữ gì?
cảm ơn








Văn hóa cảm ơn

Mỗi lần được nhận thanks bạn sẽ có thêm 2 điểm.


- Bấm nút thanks là cách Thank ý nghĩa nhất.

- Trả lời lại câu hỏi là cách Thank thiết thực nhất.

 

andongwoo_007

New Member
hay wa, em đang làm về Cocacola, thanks








Văn hóa cảm ơn

Mỗi lần được nhận thanks bạn sẽ có thêm 2 điểm.


- Bấm nút thanks là cách Thank ý nghĩa nhất.

- Trả lời lại câu hỏi là cách Thank thiết thực nhất.

 

jojoolio121

New Member
bài viết của các bạn khá hay.Nhưng cần thêm một ít hinh ảnh nữa chắc sẽ sinh động hơn dấy ạ.em thích nhất là bài heineke[/QUOTE]
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top