xara_IT

New Member

Download miễn phí Phương pháp tiếp cận của triết học so sánh Đông -Tây: lịch sử vấn đề và triển vọng





Ở Việt Nam, trong suốt thế kỷ XX, việc nghiên cứu triết học so sánh Đông -Tây cũng thu hút được sự quan tâm của nhiều học giả thuộc nhiều chuyên
ngành khác nhau. Tuy nhiên, trên thực tế, việc nghiên cứu này mới chỉ dừng
lại ở mức độ ban đầu với một số lượng chưa nhiều các công trình nghiên c ứu,
dịch thuật và bài viết chưa mang tính hệ thống, có liên quan trực tiếp hay gian
tiếp đến lĩnh vực này. Trong số này, có thể kể đến một số sách và bài viếttiêu
biểu, như cuốn Những dị biệt giữa hai nền triết lý Đông -Tâycủa tác giả Kim
Định, xuất bản năm 1974; cuốn Triết học Đông -Tâydo Nguyễn Như Diệm
làm chủ biên (gồm các bài viết đã được đăng trên các tạp chí nước ngoài bàn
về đối thoại triết học Đông –Tây và được dịch ra tiếng Việt), xuất bản năm
1996(9), cuốn Minh triết trong tư tưởng phương Tây của Nguyễn Thu Phong,
xuất bản năm 2002. Đặc biệt, khi nói đến việc dịch thuật các công trình nghiên
cứu về triết học so sánh Đông –Tây ở Việt Nam, không thể không nhắc đến
nhà triết học Pháp -Phranxoa Juliên, học giả có số lượng công trình nghiên
cứu triết học lớn nhất (gần10 công trình) đã được dịch ra tiếng Việt.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ăn hoá vào thập kỷ cuối của thế kỷ XX. Phương pháp
tiếp cận của triết học so sánh Đông – Tây chủ yếu tập trung vào những vấn đề,
như nguồn tư liệu của các nền triết học, sự phát triển của mô hình so sánh,
phương pháp so sánh các nền triết học, những đặc điểm và quy tắc của đối
thoại triết học liên văn hoá.
Trong một cuốn sách nhan đề: “Triết học hình thành trong các khu vực khác
nhau trên trái đất như thế nào và tại sao?”, xuất bản năm 1988, tập thể tác giả
người Cộng hòa Dân chủ Đức đã đặt vấn đề xây dựng bản đồ triết học thế giới
. Bên cạnh ba cái nôi lớn của triết học nhân loại, như Hy Lạp, Trung Quốc và
Ấn Độ, các tác giả này còn đề cập tới một số địa danh triết học khác, như Nhật
Bản, các nước Hồi giáo, các nước châu Phi, các nước Nam Mỹ, v.v.. Điều
quan trọng mà họ muốn nhấn mạnh là đặc thù của tư duy triết học ngoài châu
Âu và tính đa dạng của sự hình thành tư duy triết học nhân loại. Từ đó, các tác
giả này đã đưa ra một danh mục các địa danh triết học thế giới với một sự chọn
lựa khá chặt chẽ.
Từ cách nhìn nhận trên, có thể đặt ra những câu hỏi: thứ nhất, liệu bản đồ triết
học thế giới này còn có thể mở rộng được nữa hay không một khi triết học
được hiểu khác với khái niệm triết học theo truyền thống của triết học Tây Âu,
hay một khi bản đồ triết học thế giới được xem là gần gũi với bản đồ các nền
văn hóa thế giới; thứ hai, trong ý nghĩa ấy, liệu triết học Việt Nam có chỗ đứng
của mình trên bản đồ triết học thế giới hay không. Theo chúng tôi, vấn đề về
khả năng mở rộng của bản đồ triết học thế giới và vị thế của triết học Việt Nam
trên bản đồ triết học thế giới này, ở mức độ nào đó, có thể được luận giải từ
phương pháp tiếp cận của triết học so sánh, một phương pháp tiếp cận có
nhiều triển vọng, đang được áp dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Trong
khuôn khổ của bài viết này, chúng tui tập trung phân tích khái quát lịch sử vấn
đề và triển vọng của phương pháp tiếp cận này.
Triết học nhân loại đã trải qua một lịch sử kéo dài suốt từ hơn hai ngàn năm
trăm năm qua. Danh từ “triết học” có xuất xứ từ Tây Âu, từ thuật ngữ “philo-
sophia” ở Hy Lạp cổ đại. Tất nhiên, không phải chỉ Hy Lạp mới là cội nguồn
duy nhất, thực sự của triết học thế giới. Là sự kết tinh của tinh thần thời đại,
các nền triết học được hình thành một cách tương đối độc lập với nhau và phát
triển dưới những hình thức muôn hình muôn vẻ của mình ở nhiều nơi trên thế
giới, đặc biệt là ở ba trung tâm lớn của triết học nhân loại từ thời Cổ đại, là Hy
Lạp, Trung Quốc và Ấn Độ.
Tuy nhiên, khó khăn về khoảng cách địa lý và hạn chế về phương tiện đi lại,
phương tiện giao tiếp giữa các cộng đồng văn hóa trên thế giới đã là những trở
ngại đáng kể cho sự giao lưu giữa các nền văn hóa, giữa các nền triết học Đông
- Tây. Quá trình giao lưu, so sánh, truyền bá, tiếp thu và học hỏi giữa các nền
triết học khác nhau trong giai đoạn đầu tiên của nó chủ yếu chỉ dừng lại trong
phạm vi các nền văn hóa lân cận và ở mức độ rất hạn chế. Quá trình này
thường gắn liền với sự gia tăng các hoạt động buôn bán khu vực và quốc tế,
với các cuộc chiến tranh mở rộng lãnh thổ và ảnh hưởng của các nước, với sự
phát triển của giao thông hàng hải, với sự truyền bá của các tôn giáo (trước hết
là Phật giáo, Kitô giáo và Hồi giáo) và đặc biệt, với quá trình thuộc địa hóa của
các cường quốc phương Tây trong suốt nhiều thế kỷ.
Một trở ngại lớn khác cho sự giao lưu, so sánh giữa các nền triết học Đông –
Tây chính là sự gia tăng rõ rệt của lối tư duy lấy mình, lấy cộng đồng văn hóa
mình làm trung tâm mà một trong những biểu hiện rõ nhất của nó là thuyết lấy
châu Âu làm trung tâm (Eurocentrism), nhất là từ thời kỳ Khai sáng ở châu
Âu. Các đại biểu của chủ thuyết này xem nền văn hóa Tây Âu là đỉnh cao của
toàn bộ các quá trình phát triển lịch sử nhân loại trên trái đất. Coi các tư tưởng,
các giá trị của nền văn minh phương Tây là có tính phổ quát, họ thường đề cao
việc truyền bá những tư tưởng và giá trị này cho các dân tộc khác, các nền văn
hóa khác, hay thậm chí biện minh cho chủ nghĩa thực dân phương Tây, cho
công cuộc thuộc địa hóa, chinh phục các nước khác với chiêu bài “khai phá
văn minh”. Họ coi các nền văn hóa khác ngoài châu Âu là không có khả năng
tư duy triết học. Nhiều nhà tư tưởng phương Tây có xu hướng coi triết học chỉ
là di sản của lịch sử tư tưởng phương Tây và đồng nhất lịch sử triết học
phương Tây với toàn bộ lịch sử triết học nhân loại. Các nhà Khai sáng Anh,
như Hium, Lốccơ, các nhà Khai sáng Pháp, như Vônte, Điđrô và các nhà Bách
khoa toàn thư Đức, như Lesinh, Cantơ đã xem thời đại mình như đỉnh cao của
toàn bộ quá trình phát triển lịch sử và coi nền văn hóa Tây Âu là tâm điểm cho
tất cả các nền văn hóa khác. Chẳng hạn, trong bài giảng về Địa vật lý, trong
các tác phẩm, như Siêu hình học đạo đức, Tư tưởng về lịch sử đại cương theo
mục tiêu công dân thế giới, hay Hướng đến một nền hòa bình vĩnh cửu, Cantơ
đã biện hộ cho những định kiến chủng tộc đối với những nền văn hóa khác,
mặc dù ông là nhà tư tưởng của lý tính và tự do, người đã đưa ra những tuyên
bố hùng hồn về quyền con người, về xã hội công dân thế giới, về nền hòa bình
vĩnh cửu. Theo ông, người da màu là một con vật không có được bất cứ sự tinh
tế nào của một nền giáo dục và con vật này thể hiện một cách truyền cảm “sự
ác độc của bản chất con người”. Da màu còn được Cantơ gán cho ý nghĩa siêu
hình học nhằm “phân biệt loài người một cách rõ ràng theo các đẳng cấp khác
nhau”(2).
Với lối tư duy cực đoan của thuyết lấy châu Âu làm trung tâm, nhiều đại biểu
của triết học phương Tây dường như không sẵn sàng thừa nhận tư duy triết học
trong các nền văn hóa khác ngoài châu Âu. Do vậy, trong suốt thời kỳ hình
thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản phương Tây kéo dài hàng trăm năm,
họ đã không chủ trương thực hiện giao lưu văn hóa Đông – Tây trong lĩnh vực
triết học trên tinh thần tôn trọng, học hỏi lẫn nhau giữa các nền văn hóa triết
học khác nhau. Chính vì những nguyên nhân ấy mà cho đến đầu thế kỷ XIX,
triết học so sánh chưa có được cơ sở hình thành và phát triển.
Vào những năm 20 của thế kỷ XIX, ở các trường đại học châu Âu đã bắt đầu
xuất hiện những mầm mống đầu tiên cho môn triết học so sánh, lĩnh vực
chuyên ngành tập trung chủ yếu vào nghiên cứu so sánh giữa các nền triết học
thuộc các truyền thống khác biệt nhau, giữa nền triết học phương Tây và nền
triết học phương Đông.
Cái mốc quan trọng đánh dấu sự nhận thức đúng đắn và tôn vinh triết học Ấn
Độ ở Tây Âu là việc A.Slêgen “phát hiện” và dịch thuật tác phẩm Bhagavad-
Gita ra tiếng La tinh vào năm 1823 tại Berlin. Trong một...
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Phương pháp điều khiển trực tiếp momen đối với hệ truyền động biến tần động cơ đồng bộ kích thích vĩnh cửu Khoa học kỹ thuật 0
D Phương pháp tiếp cận tác phẩm thơ tự do trong nhà trường thpt từ góc độ đặc trưng thể loại Luận văn Sư phạm 0
G Phương pháp học tiếng trung giao tiếp siêu tốc Tiếng Trung 0
D Xây dựng phương pháp Elisa gián tiếp xác định dư lượng Fluoroquinolone trong sữa Khoa học Tự nhiên 0
G Phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao quy trình đón tiếp, làm thủ tục nhập phòng cho Luận văn Kinh tế 0
M Phương hướng, kiến nghị và biện pháp tiếp tục đổi mới doanh nghiệp nhà nước Luận văn Kinh tế 0
D phương pháp tiếp cận phát triển cộng đồng dựa vào nội lực và do người dân làm chủ (phương pháp tiếp Văn hóa, Xã hội 0
M Ứng dụng phương pháp công tác xã hội nhóm nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục kỹ năng giao tiếp Văn hóa, Xã hội 2
A Xác định gián tiếp Cloxacillin bằng phương pháp phổ hấp thụ nguyên tử ( F-AAS) Khoa học Tự nhiên 2
A Phương pháp tiếp cận liên văn hóa trong giảng dạy ngoại ngữ tiếng Pháp cho sinh viên năm thứ nhất tr Công nghệ thông tin 2

Các chủ đề có liên quan khác

Top