yuna_moon

New Member
Download miễn phí Tiểu luận Đầu tư FDI vào lĩnh vực công nghiệp điện tử, thực trạng và giải pháp

Cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế từ những năm đầu của thập kỷ 80, ngành công nghiệp điện tử nước ta đã có những bước phát triển hết sức nhanh chóng. Đến nay, nước ta đã có 22 dự án FDI vào ngành công nghiệp điện tử (kể cả trong và ngoài khu công nghiệp) được cấp giấy phép (chiếm 9% tổng số dự án đã đầu tư vào nước ta trong thời gian qua) với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 615 triệu USD (chiếm 1,8% tổng vốn đầu tư). Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế thì hầu hết các dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép trong lĩnh vực công nghiệp điện tử đều triển khai đúng tiến độ cam kết và không có dự án nào bị rút giấy phép đầu tư.
Một đặc trưng quan trọng của các dự án điện tử là các sản phẩm sản xuất ra chủ yếu là dùng để xuất khẩu và thay thế hàng nhập khẩu. Do đó, việc ngày càng gia tăng lượng vốn vào lĩnh vực này rất phù hợp với chủ trương của Nhà nước ta đó là chủ trương phát triển các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu và sản xuất các mặt hàng thay thế hàng nhập khẩu.
Đối với ngành công nghiệp điện tử nước ta, nguồn FDI chủ yếu được huy động từ các nước Châu á như Nhật, Nics, các nước ASEAN (chiếm 93,76%), trong khi đó nguồn FDI từ các nước Châu Âu - Châu Mỹ chỉ chiếm 1 tỉ lệ rất nhỏ. Thực tế về thu hút FDI vào trong nước nói chung và vào ngành công nghiệp điện tử nói riêng, cho thấy, những nước tập trung một khối lượng công nghệ phát triển và kết hợp trình độ quản lý tốt như Mỹ, Pháp, Đức...vẫn chưa xem Việt Nam là một môi trường đầu tư hấp dẫn, nhất là đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp điện tử.
Nhìn chung, các dự án công nghiệp điện tử là có quy mô vốn trung bình và lớn. Quy mô vốn bình quân một dự án là 27.954.543 USD, như vậy, đây là ngành có vốn đầu tư rất lớn so với các ngành khác, bởi vì các dự án điện tử có hàm lượng công nghệ cao. Tuy nhiên, những dự án có quy mô vốn (dưới 5 triệu USD) cũng chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong các dự án được cấp giấy phép là 31,8% (lượng vốn chiếm 1,16%); các dự án có quy mô vốn trung bình từ 5 - 10 triệu USD chiếm tỷ lệ 22,7%; còn các dự án có quy mô lớn (các dự án có mức vốn > 10 triệu USD) chiếm tới 45,7%. Đặc biệt, đã có những dự án có mức vốn đầu tư rất lớn trên 50 triệu USD như công ty TNHH Đầu tư Hanel có mức vốn 52 triệu USD; thậm chí có những dự án có mức vốn lên tới hàng trăm triệu USD như : công ty Đèn hình OWENHANEL 178.584.000 USD, công ty sản phẩm máy hình FUJITSU Việt Nam 198.818.719 USD... Với sự tham gia của bên nước ngoài là các tập đoàn và công ty lớn trên thế giới về Điện - Điện tử như Mitsubishi, Sony, Tosiba, JVC, Philip, Samsung, LG.
Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong thời gian qua tổng số vốn thực hiện các dự án đầu tư nước ngoài trong ngành công nghiệp điện tử là 370 triệu USD (chiếm 60,5% tổng vốn đăng ký), đối với nước ta, trong giai đoạn này nguồn vốn nói trên là rất quan trọng. Tuy nhiên, quá trình thực hiện các dự án đầu tư vẫn chưa tốt, tiến độ triển khai còn chậm, mặc dù số lượng các dự án được cấp giấy phép là tương đối ít. Các dự án trong ngành công nghiệp điện tử bước đầu đã có dấu hiệu chững lại do bị bão hoà.
Trong thời gian qua, trong tổng số 22 dự án điện tử đang hoạt động có 14 dự án là dưới hình thức các xí nghiệp liên doanh (chiếm 63,6% tổng số dự án và chiếm 61% tổng số vốn đầu tư); 8 dự án dưới hình thức 100% vốn nước ngoài (chiếm 36,4% tổng số dự án và chiếm 39% tổng số vốn đầu tư). Tuy nhiên, trong thời gian tới xu hướng các dự án theo hình thức 100% vốn nước ngoài sẽ gia tăng. Đây là một xu hướng tất yếu bởi vì các chủ đầu tư nước ngoài muốn được điều hành xí nghiệp một các độc lập, có quyền tự quyết trong các hoạt động của Công ty mà theo luật pháp của Việt Nam thì trong các công ty liên doanh, Hội đồng quản trị được thành lập theo tỷ lệ vốn góp và một điều quan trọng là trong liên doanh Tổng giám đốc hay phó tổng giám đốc thứ nhất phải là người Việt Nam mà một trong hai người này lại có quyền phủ quyết. Mặt khác, đối với các dự án lớn, một thực tế là phía Việt Nam không đủ năng lực về tài chính để tham gia góp vốn.
Có thể nói, những dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của ngành công nghiệp điện tử đã trực tiếp đóng góp cho ngân sách nhà nước hàng trăm triệu USD, cũng như đã thu hút được hơn 5500 công nhân lao động kỹ thuật và các chuyên gia trong ngành điện tử. Bên cạnh đó, còn gián tiếp tạo ra việc làm cho hàng ngàn lao động gián tiếp có công ăn việc làm ổn định và có thu nhập như các công ty xây dựng, dịch vụ có liên quan. Một điều đặc biệt nữa là thông qua các dự án đó đã đào tạo cho Việt Nam một đội ngũ công nhân lành nghề có tác phong công nghiệp; một đội ngũ chuyên gia giỏi trong lĩnh vực công nghiệp điện tử. Tuy nhiên, lao động trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói chung và điện tử nói riêng còn nảy sinh nhiều vấn đề trong các doanh nghiệp, phần lớn người lao động chưa được đối xử đúng như quy chế của Nhà nước, bởi vì có khoảng 30% xí nghiệp có hợp đồng với người lao động và chỉ có khoảng 1/3 xí nghiệp có tổ chức công đoàn, vì thế vừa qua đã có rất nhiều tranh chấp, khiếu kiện.
Ngành công nghiệp điện tử của nước ta tuy được coi là ngành mũi nhọn nhưng đây là một ngành mới cho nên việc xây dựng và phát triển gặp nhiều khó khăn về công nghệ, đội ngũ chuyên gia, cơ sở hạ tầng... . Chủ trương của Nhà nước ta trong việc hợp tác đầu tư với nước ngoài là phải tiếp nhận những công nghệ tiên tiến phù hợp tình hình trong nước. Thông qua FDI, công nghệ được chuyển giao qua các hình thức như máy móc, thiết bị, kinh nghiệm quản lý, bí quyết kỹ thuật, nhãn hiệu hàng hoá...Tuy nhiên, trong thực tế chủ trương này chúng ta vẫn chưa đạt được theo ý muốn. Thời gian qua, chúng ta đã nhập khẩu nhiều công nghệ lạc hậu, thiếu đồng bộ với giá quá cao, gây ô nhiễm môi trường sinh thái và việc nhập những công nghệ lạc hậu không những không đạt được mục tiêu phát triển của ngành điện tử cũng như phát triển đất nước, mà nó còn làm gia tăng khoảng cách giữa ngành công nghệ điện tử nước ta với các nước trên thế giới. Đội ngũ cán bộ làm việc trong các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực công nghiệp điện tử còn chưa đáp ứng được yêu cầu. Do đây là ngành công nghiệp mới có công nghệ tiên tiến, đòi hỏi cán bộ không những phải có trình độ chuyên môn cao mà còn đòi hỏi họ phải có kinh nghiệm trong quản lý, có trình độ vi tính và ngoại ngữ. Nhiều cán bộ Việt Nam chưa hiểu biết về luật pháp và thông lệ quốc tế, do đó dễ bị các chủ đầu tư chèn ép tạo nên thiệt thòi về quyền lợi và bất bình đẳng trong hợp tác quốc tế. Hạ tầng cơ sở nước ta quá yếu kém, điện nước thiếu và không ổn định, đường xá xuống cấp, hệ thống cảng biển sân bay chưa đạt tiêu chuẩn Quốc tế. Trong những năm gần đây, nhờ việc phát triển của ngành công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin nên hệ thống thông tin liên lạc và viễn thông đã có nhiều cải thiện, tuy nhiên gía thuê nhà, dịch vụ văn phòng, phí viễn thông còn quá cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Việc giải toả mặt bằng gặp rất nhiều khó khăn, kéo dài làm giảm tiến độ triển khai dự án.
Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ của các nước trong khu vực đã tác động rất lớn tới dòng FDI vào lĩnh vực công nghiệp điện tử nước ta. Cuộc khủng hoảng tài chính đã gây nên tình trạng mất giá đồng tiền của các nước trong khu vực. Do đó, một số nước đã có chính sách hạn chế dòng ngoại tệ xuất ra nước ngoài để đầu tư. Hiện tượng này không chỉ làm giảm nhịp độ đầu tư của nước ngoài vào lĩnh vực công nghiệp điện tử (đa số các nước đầu tư ở Châu á) mà còn giảm tiến độ thực hiện dự án của các nước này. Thực tế tại Việt Nam cho thấy, quy mô cũng như số lượng các dự án đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực điện tử giảm một cách đáng kể trong 2 năm, năm 1996 có 4 dự án, quy mô trung bình một dự án là 4.137.330 USD; năm 1997 có một dự án (vốn đầu tư là 10.000.000 USD), đáng chú ý là năm 1998 và năm 1999 không có dự án nào thuộc lĩnh vực điện tử được cấp giấy phép.
Việt Nam sắp gia nhập khối AFTA cũng tác động tới dòng FDI vào lĩnh vực công nghiệp điện tử, bởi vì nếu môi trường đầu tư của Việt Nam không hấp dẫn hơn một nước nào đó trong khối thì các chủ đầu tư sẽ đầu tư vào nước đó chứ không đầu tư vào Việt Nam, đây là một điều hết sức khó khăn đối với nước ta. Mặc dù môi trường đầu tư của Việt Nam được nhiều chuyên gia đánh giá là một môi trường đầu tư hấp dẫn, thì những hạn chế trên cũng đã làm cho môi trường đầu tư của nước ta có độ rủi ro cao, làm giảm lượng các nhà đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.
Qua việc phân tích một số nét cơ bản về tình hình thu hút và sử dụng FDI vào lĩnh vực công nghiệp điện tử và công nghệ tin học nói trên. Để góp phần thực hiện thành công quá trình thu hút FDI vào trong nước nói chung và vào ngành công nghiệp điện tử nói riêng. Chúng tui đưa ra một số giải pháp hữu hiệu nhằm thu hút và sử dụng một cách có hiệu quả nhất nguồn FDI trong lĩnh vực công nghiệp điện tử như sau :
Thứ nhất, về việc hoàn thiện môi trường pháp lý. Luật đầu tư nước ngoài ra đời đã trên 10 năm, qua các lần sửa đổi và ngày càng hoàn thiện, tuy nhiên còn có một số vấn đề cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện như sau:
- Nâng cấp một số văn bản pháp quy dưới luật sang hình thức luật. Nhìn chung Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài của nước ta đã khá đầy đủ nhưng để hoàn chỉnh hơn, hấp dẫn hơn các nhà đầu tư đối với nước ta phải chuyển đổi một số quy định từ văn bản dưới luật sang hình thức luật để nó có giá trị pháp lý cao hơn và ổn định hơn ví dụ quy chế khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất... thực hiện điều này giúp cho các nhà đầu tư vững tin hơn tránh tình trạng phải đối phó với sự thay đổi về mặt pháp lý.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế. Trong thời gian tới Nhà nứơc cần nhanh chóng ban hành các văn bản hướng đến thu thuế cũng như các loại phí một cách thống nhất và hợp lý, tránh tình trạng nhiều khoản thu không hợp lý làm phiền hà tới nhiều người, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài.
- Cải cách thủ tục hành chính, hình thành cơ chế, chính sách đồng bộ nhằm phát huy tiềm năng hỗ trợ và khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực công nghiệp điện tử. Đơn giản hoá thủ tục, quy trình xét duyệt thẩm định dự án đầu tư về quy trình "một cửa" và thời hạn xét duyệt rút ngắn tối đa.
Xây dựng và ban hành một hệ thống chính sách đồng bộ, ổn định nhằm tạo môi trường pháp lý thuận lợi trên địa bàn như chính sách đền bù giải phóng mặt bằng, cấp phép xây dựng, cấp phép xuất nhập khẩu, về ưu tiên giao đất, cho thuê đất đối với các dự án có thu hút vốn nước ngoài, chính sách giảm giá đất đối với khu công nghiệp điện tử với các dự án có quy mô lớn, diện rộng.
Thứ hai, về xây dựng kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật. Trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ thì kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật hiện đại là điều kiện tiên quyết vì kỹ thuật cao chỉ phát huy được trong một cơ sở hạ tầng thích hợp. Để nhanh chóng tiếp thu vốn và kỹ thuật nước ngoài, nước ta cần phát triển việc thành lập và mở rộng các đặc khu kinh tế: khu chế xuất, khu tự do buôn bán, khu công nghiệp kỹ thuật cao trên những vùng đất gắn những đô thị lớn, cảng biển, cảng hàng không..
Thứ ba, về vấn đề lao động. Đối với các nhà đầu tư đặc biệt là các nhà đầu tư trong lĩnh vực có hàm lượng công nghệ cao như ngành điện tử thì lao động sẽ không còn là sự hấp dẫn nhất đối với họ, bởi vì ở ngành này chi phí lao động chiếm tỷ lệ thấp và ngày càng có xu hướng giảm theo sự tiến bộ của khoa học công nghệ. Do đó, việc đào tạo ra một đội ngũ lao động có tay nghề cao, cần cù, chịu khó, có ý thức tổ chức kỹ thuật, trung thực mới là yếu tố cần thiết để thu hút đầu tư nước ngoài. Nhà nước cần tăng cường độ hấp dẫn trên cả 2 mặt: quy định tiền lương tối thiểu hợp lý của doanh nghiệp phù hợp với mặt bằng trong khu vực. Mặt khác, cần cải cách hệ thống giáo dục đào tạo, ý thức làm việc, kế hoạch đào tạo lại, trước mắt là đội ngũ lao động trực tiếp làm trong xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để lao động của ta có trình độ ngang bằng Quốc tế và khu vực, nhằm nâng cao trình độ cạnh tranh trước mắt và lâu dài.
Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
P [Free] Một số vấn đề về Thanh toán không dùng tiền mặt tại ngân hàng đầu tư và phát triển Cao Bằng - Luận văn Kinh tế 0
T [Free] Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng Công thương Đống Luận văn Kinh tế 0
P [Free] Giải pháp phát triển sản phẩm dịch vụ tại ngân hàng đầu tư phát triển nông thôn Hà Tây Luận văn Kinh tế 0
A [Free] Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung- Dài hạn tại Chi nhánh ngân hàng đầu tư p Luận văn Kinh tế 0
T [Free] Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tài Chi nhánh ngân hàng nông n Luận văn Kinh tế 0
J [Free] Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư tại chi nhánh ngân hàng Luận văn Kinh tế 0
N [Free] Đánh giá hiệu quả của dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu đô thị mới Đồng Văn tỉnh Hà Nam Luận văn Kinh tế 0
J [Free] Một số ý kiến nhằm Xây dựng và phát triển VHDN tại Công ty Đầu Tư - Xây Dựng Hà Nội Luận văn Kinh tế 0
U [Free] Đầu tư nước ngoài vào Tìm kiếm - Thăm dò - khai thác Dầu khí tại Tổng Công ty Dầu khí Việt Na Luận văn Kinh tế 0
T [Free] Tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc Luận văn Kinh tế 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top