longhomieu2006

New Member
em phải làm tập làm văn nghị luân đề : các mác noi:"mọi thứ tiết kiệm suy cho cùng là tiết kiệm thời (gian) gian" . em hãy làm sáng tỏ nhận định trên. em đxa tìm luận điểm, luận cứ nhìu nguồn trên mạng rồi nhưng vẫn ít qua, thầy qui định ít nhất 2 tờ giấy đôi. casi này lấy điểm một tiết. mấy anh chị tìm thêm giúp em nhá, thêm luận điiểm luận cứ hay vào. thank anh chị trước nhá..:)
 

talasomot

New Member
“Nghịch lý của thời (gian) gian"

Thời gian chúng ta có là trước bạc chúng

bất có” (Ilia và Petrov). Nhật xét nói trên bất biết hóm hỉnh đến đâu, nhưng thật sự an ủi lòng người: Cuối cùng thì chúng ta ai cũng có được một cái gì đó – chí ít ra là thời (gian) gian. Thời gian bất sở có được nhưng ai cũng có. Cái dễ sở có hơn là trước bạc thì ngược lại – nhiều người bất có. Trong tương quan này, xin được kể về cái mà chúng ta ai cũng có hơn là cái mà (nhiều) đa số chúng ta đều chỉ có chút ít, thậm chí, một số người – bất có chút nào.


Kể về thời (gian) gian là chuyện không cùng. Các Pharaon hùng mạnh của xứ Ai Cập thời xa xưađã bất thể ngờ rằng thời (gian) gian sẽ biến các kim tự tháp bất tiềm xâm phạm thành những nơi dễ bị tổn thương nhất. Cũng như chuyện “đánh dây thép” (đánh điện) rất hiện lớn một thời (gian) đã bị năm tháng biến thành một cái gì đó có vẻ ngô nghê, lối nhịp. Sự không cùng của câu chuyện về thời (gian) gian nằm ở chỗ; thời (gian) gian là một chuỗi của các nghịch lý. Dưới đây là một số nghịch lý xin được viết ra theo kiểu biết đến đâu thì kể đến đấy.


Nghịch lý 1: Càng phát triển càng có ít thời (gian) gian


Thời gian là một giá trị. Các Mác vừa từng khẳng định: “Mọi sự tiết kiệm suy cho cùng đều là tiết kiệm về thời (gian) gian”. Để làm được điều này, loài người vừa tìm cách gắn phần lớn các thành tựu của mình với cái sự “Nhanh hơn”. Tuy nhiên, khi tất cả cái càng nhanh thì chúng ta càng có ít thời (gian) gian. Tại những thành phố lớn, con người đang hoạt động như những Robot vừa được lập trình sẵn, hơn là đang sống. Cái thú “quán cóc liêu xiêu một câu thơ” vừa trở thành thứ xa xỉ mà rất ít người dân Hà Thành có được. Trong lúc đó, “người sống nhiếu nhất phải là ngưới ống lâu nhất, mà là người cảm nhận được cuộc sống nhiều nhất”. Tệ thay, chúng ta đang đối xử với cuộc sống của mình tương tự như Tôn Ngộ bất thưởng thức những trái đào tiên. Chúng rất quý giá, nhưng trôi tuột vào bụng mà chẳng để lại tí hương vị gì.


Liên qua đến chuyện con người cần thời (gian) gian để sống, điều đáng phấn khởi là những người Việt làm công ăn lương cũng vừa được nghỉ một tuần hai ngày: thứ bảy và Chủ Nhật. Xem ra, đây là một quyết sách sáng suốt. Trước hết, chúng ta có thêm thời (gian) gian để sống, để nghi ngơi, thậm chí để chuẩn bị cho cái sự làm chuyện tốt hơn. Sau nữa, cứ nghĩ mà xem, tuy làm chuyện nhiều nhưng chúng ta còn chưa bằng trời hạ, còn nghỉ ngơi thì có vẻ như vừa không thua kém gì ai.


Nghịch lý 2: Thời gian ai thiếu cứ thiếu, ai thừa cứ thừa


Thực tế cho thấy, những người thừa thời (gian) gian xem ra nhọc nhằn hơn; “Thời gian chúng ta có là chuyện làm chúng ta bất có”. Theo số liệu của tổng cục thống kê, tỷ lệ thất nghề ở các thành phố của nước ta là 6,44%; tỷ lệ thời (gian) gian lao động được sử dụng thường xuyên ở nông thôn là 73,86% (số liệu năm 2000). Các tỷ lệ này bất đến nỗi quá bi đát so với một số nước trên thế giới. Tuy nhiên, khó có thể thống kê được nỗi lòng của những người thất nghiệp. Đặc biệt là của những học viên mới ra trường sức dài vai rộng lớn và chữ đầy “bồ”. Sau khi có được tấm bằng, nhiều cử nhân mới nhận ra rằng “bồ chữ” của mình là thứ rất khó bán trên thị trường. Thị trường và nhà trường có vẻ như bất có mỗi quan hệ tương tác gì nhiều lắm.


Ngoài ra, tin hay bất thì tuỳ, một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng thất nghề trong giời “lều chõng” ở Việt Nam là tâm lý thích học để “làm quan” là động lực phấn đấu của giới trẻ thì chúng ta sẽ bất bao giờ có được những Bill Gates của Việt Nam (dám bỏ học để lao vào kinh doanh và trở thành một trong những người giàu nhất hành tinh). Trong khi nền kinh tế đang cần các nhà kinh doanh giỏi, thì tâm lý thích “làm quan” là một thứ “gậy chọc bánh xe” thật sự. Với một di sản như vậy, phải chăng tôn vinh tài kinh doanh, tiềm năng làm giàu chân chính là một trong những cách giải quyết chuyện làm căn bản nhất?


Tuy nhiên tỷ lệ hơn 26% thời (gian) gian lao động bất biết dùng để làm gì ở nông thôn, có lẽ, là vấn đề lớn hơn rất nhiều. Với trên dưới 80% dân số sống ở các miền quê, đây là một con số khổng lồ. Cao điểm của tình trạng bất có chuyện làm là thời (gian) kỳ nông nhàn. Hàng triệu nông dân suốt ngày quanh quẩn ở nhà, bất biết làm gì. Thời gian họ có chỉ làm nên sự buồn tình, kẻ thù nguy hiểm của chương trình dân số và kế hoạch hoá gia (nhà) đình.


Những nông dân năng động hơn thì đổ về các thành phố lớn làm ra (tạo) nên các “chợ người” tự phát và một loạt các vấn đề xã hội. Lực lượng lao động giá rẻ và bất kén chuyện này vừa góp phần giải quyết nhiều vấn đề của người dân thành phố. Tuy nhiên, hàng trăm người ngồi vật vã bên các hè phố và đổ ra đường tranh nhau công chuyện đang làm nhức nhối thêm các vấn đề liên quan đến trật tự, an toàn giao thông và văn minh đô thị. Mỗi tấm huy chương đều có hai mặt. Hiện tượng lao động dư thừa đổ về thành phố cũng vậy. Tuy nhiên, cái đáng băn khoăn là phản ứng chậm chạp và thiếu mặch lạc của chúng ta đối với vấn đề này. (Nhiều người cho rằng nên thành lập các trung tâm hay vănphòng chốngđăng ký tìm chuyện tạm thời. Các trung tâm này sẽ là nơi mà người lao động và người thuê mướn có thể giao dịch với nhau. Đồng thời, ch

 

Các chủ đề có liên quan khác

Top